Nước Nga qua những ghi chép nhỏ

Tác giả Chicken222, đăng lần đầu trên Voz, năm 2020

Nước Nga trong khoảng 20 năm trở lại đây (chính xác phải là hơn 30 gần 40 năm, nhưng những biến động lớn thì khoảng 20 năm) gắn liền với sự hình thành, lớn mạnh của một xã hội ẩn, phía sau những tòa nhà kì vĩ hay những công trình xây dựng mang đậm tính Xô Viết, xã hội của những người di cư.

Tôi không có ý định đưa ra câu trả lời hoàn chỉnh cho câu hỏi này, tôi chỉ muốn nói về người VN và một vài cộng đồng khác mà tôi biết.

Người VN, họ là những người đi theo các hợp đồng xuất khẩu lao động thời Xô Viết, họ là những người đi theo tiếng gọi của những giấc mơ đổi đời mà người thân đã thành công nơi này kể lại, họ có thể là những người đi theo diện xuất khẩu lao động sau ngày nước Nga ổn định, họ có thể là những người vượt biên đến từ Đông Đức cũ hay các nước cộng hòa trước đây. Vô vàn những ví dụ và vô vàn những số phận.

Họ có thể là thương nhân trưởng thành từ một giai đoạn LX thiếu thốn hàng tiêu dùng hoặc kém cỏi trong phân phối. Những người này có thể buôn từ cái bàn là cái nồi áp suất, đôi giày da, cái quần Jean, cái áo khoác, đồ lót, đồ điện tử… mọi thứ và theo những con đường khác nhau. Hàng trăm container hàng từng theo những chuyến tàu lênh đênh trên biển cập bến HP hay những cảng khác mang theo bao nhiêu là bàn là Liên Xô, nồi áp suất, bếp lò xo và sau đó những chuyến hàng quay ngược sẽ là quần Jean Tàu, đồng hồ Casio, Seiko, dây thun, cúc quần Jean (một thứ tưởng buồn cười nhưng tỉ lệ lợi nhuận cao đến không thể tả)… lại quay về nước Nga để theo những bàn chân không mỏi len lỏi khắp nước Nga bằng những chuyến tàu chiều thứ Sáu hay những chuyến xe khách xuyên đêm nối giữa những miền quê. Nhắm mắt lại, sẽ thấy những đường chuyển hàng nhỏ bé nhưng cần cù tỏa ra khắp những nơi có người VN sinh sống trên nước Nga những ngày ấy. Không thể phủ nhận rằng những chú kiến VN bé nhỏ đã góp phần ổn định phần nào nhu cầu hàng tiêu dùng cho toàn nước Nga những năm tháng xám một màu bao cấp ấy. Nói thêm là dù tiếng Nga rất tệ, người Nga vẫn hiểu được những con người VN bé nhỏ ấy muốn nói gì. Những năm tháng ấy, nụ cười luôn nở tươi trên môi những người Nga đôn hậu khi đến mua hàng hay được mua hàng từ những người bạn VN bé nhỏ. Họ thân thiện với nhau như những người cộng sản chân chính.

Họ cũng có thể là những sinh viên giỏi từng được cử đi nước ngoài du học. Những con người với kiến thức, đầu óc và khả năng tiếng Nga của mình đã tìm ra rất nhiều cách kiếm tiền bằng chuyên môn. Dom 5, một địa danh mà bất cứ người VN nào ở Moscow những năm đầu 80 đến đầu 2000 đều biết. Đã có những lúc trong căn chung cư ấy có vài cái xưởng tách vàng hay kim loại màu đặt trong những căn hộ bé xíu đã được cải tạo thành các phòng thí nghiệm nhỏ.

Họ cũng có thể là những đại gia sau những năm 90 ở VN mang theo tiền và cung cách làm việc sặc mùi XHD sang nước Nga đầu tư. Những người này tôi ít tiếp xúc nên không muốn bàn sâu.

Họ có thể là những cô gái sang đây làm công tác phục vụ xã hội hoặc lưu lạc từ những xưởng may về với nghề nghiệp này. Phần lớn họ không đẹp và đối tượng phục vụ cũng phần đông là các thanh niên SNG xa gia đình hay những bác Nga già còn máu. Tỷ lệ phục vụ cho người VN không cao do nhan sắc các cô thì thường vừa mắt người nước ngoài hơn người VN.

Họ cũng có thể là những nhóm XHĐ sang đây tìm cơ hội. Số này tôi cũng ít tiếp xúc, chẳng muốn nói.

Rất nhiều mà khó có thể miêu tả kĩ về những dòng chảy con người đến và ở lại với nước Nga. Mỗi nhóm người ấy, khi đi sâu tìm hiểu lại thấy bao nhiêu điều hay cũng như dở, thú vị cũng như đau lòng. Chỉ có một điểm chung giữa họ với nhau đó là họ luôn ý thức được mình là người nước ngoài cho dù họ có hộ chiếu Nga hay không. Nước Nga chưa bao giờ là miền đất hứa cho người nước ngoài, đặc biệt là Châu Á và đặc biệt là sau những biến động chính trị dẫn đến những suy nghĩ có phần lệch lạc về những thương nhân nước ngoài này. Và cũng bởi tự những thương nhân Châu Á hầu hết đều không có tính thật thà như những người Nga Xô Viết.


Có một điều nữa là những thương nhân Châu Á đã nhập khẩu cho nước Nga một thứ văn hóa mà vì nó nước Nga mãi lận đận đến giờ: Hối lộ và tham nhũng.

Những con người nước ngoài trên đất Nga ngoại trừ số rất ít có giấy tờ hợp lệ thì đều là giấy tờ giả hoặc giấy tờ đã hết hạn lưu trú. Hầu hết những người giàu đều có giấy tờ hợp pháp, số ít họ còn sở hữu bất động sản, hộ chiếu Nga, con họ mang quốc tịch Nga và được học ở trường công hoặc sau đó sang Mỹ Anh du học. Nhưng phần lớn người còn lại đều là người cư trú bất hợp pháp. Họ chưa chắc đã nghèo (một số ít khá giàu) nhưng vẫn sống trong những căn hộ chung cư đi thuê cùng với nhau để chia tiền phòng, một căn hộ nhỏ tầm 12m2 (giá từ 500-1500$ tùy chỗ) có thể kê đến 5 cái giường tầng và sống 10 người trở lên. Nói cho cùng họ chỉ cần chỗ ngủ! Và thông thường những căn hộ chung cư ấy thường tập trung trong một khu nhà chung cư có bảo kê hết. Chỉ cần bước qua cổng bảo vệ là họ gần như được an toàn. Rất hiếm khi cảnh sát vào những nơi này kiểm tra giấy tờ. Đôi khi những căn phòng ấy có thể sống 3-4 cặp vợ chồng. Và lẽ dĩ nhiên những quan hệ vợ chồng cũng buộc phải thực hiện trong những không gian chật hẹp và đầy người như thế. Có đôi khi tôi đến chơi một nhà nào đấy và rất khó hiểu là vì sao họ có thể sống chật chội như thế khi mà họ giàu có hơn tôi rất rất nhiều. Câu trả lời đã nói ở trên: Rẻ và an toàn.

Mỗi buổi sáng khoảng 5h là mọi người đã phải có mặt ở chợ (cho dù đó là những ngày mùa Đông -20C) – người Nga không bao giờ làm được điều này – và chuẩn bị cho một ngày bán hàng mới với những chuyến xe chứa đầy hy vọng đến từ những thành phố xa chở theo hàng nghìn những người buôn bán lẻ hoặc những đầu nậu cỡ vừa). Những năm 2000 – 2010, theo tôi biết một ngày bán hàng có những người có thể thu đến cả vài triệu Rub (1$ lúc này khoảng 30-35 Rub). Thuế chỗ cho những quầy hàng be bé ở những chợ đầu mối lớn như Vòm hay Liu bây giờ có thể lên đến cả nghìn $ cho một ngày bao gồm mọi chi phí nhỏ lẻ khác. Để mua một quầy có khi phải trả đến 100-500k$ tùy thời điểm mà chưa chắc đã ai bán cho. Có những người bỏ vốn mua quầy rồi cho thuê lại ăn chênh lệch, mỗi tháng có thể thu về cả chục nghìn $. Nhưng việc cho thuê này chủ yếu là các ông chủ lớn làm chứ dân mà có quầy thông thường tự đứng ra buôn hàng luôn vì lợi nhuận buôn hàng gấp vài lần số này trong những mùa cao điểm.

Vì giấy tờ bất hợp lệ, họ dù giàu vẫn sống như những bóng mờ trên xứ này, mọi quyền lợi về mặt pháp luật là không có. Mọi quyền lợi về y tế (trừ cấp cứu với tình huống nguy hiểm tính mạng) là không có. Họ có thể dùng tiền mua cảnh sát nhưng cảnh sát cũng có thể đạp họ xuống tuyết bất cứ lúc nào có lệnh. Và sẽ chẳng ai đòi hỏi chính quyền phải điều tra rõ ràng nếu như một ngày có một bóng mờ nào đó biến mất. Họ chẳng có gì, ngoài tiền! Những cánh rừng phía sau chợ Vòm mỗi mùa tuyết tan lại lộ ra vài cái xác người là chuyện bình thường (VN có, Tàu có, Đầu đen có…) và người ta chỉ đơn giản là gom chúng lại và đốt đi trong các nhà xác thành phố. Có người được nhận dạng, có người không. Và họ sẽ biến mất như chưa hề tồn tại trên cái xứ lạnh này. Ngày mai lại là ngày mới, chợ vẫn ồn ào phức tạp! Với cái dòng chảy công việc mãnh liệt ấy, chẳng mất bao nhiêu thời gian mà họ sẽ bị lãng quên thật sự!


Những phận người xưởng may

Họ là ai? Trả lời cho câu hỏi này lại là một câu hỏi khác: Vì sao họ chọn sang Nga để làm thợ may?

Nga những năm đầu 90 là thời kì của những mặt hàng tiêu dùng. Những dòng chảy đồ dùng với phẩm chất rất Nga là “nồi đồng cối đá” như bàn ủi, nồi áp suất, dây mayso chạy ra khỏi nước Nga ào ạt mà điểm đến có thể là VN, có thể là các nước khác. Máy móc, động cơ cũng là một phần của những chuyến hàng này nhưng số người có khả năng cũng như đủ trình độ để buôn nó thì không nhiều. Nhưng ai làm được thì thời gian đầu lại rất giàu. Dòng chảy hàng hóa ngược lại Nga là áo quần, đồ tiêu dùng (như radio, tivi hay đầu bằng cassette…), những thứ ấy đến được Nga thì lợi nhuận không để đâu cho hết. Một mặt hàng nữa rất được chuộng thời ấy là đồng hồ đeo tay, bất kể là Casio mặt vuông có đèn nền huyền thoại hay chiếc Seiko automatic… sang đến Nga chỉ thua việc cân kí tương đương bằng vàng để mua thì nói hơi quá chứ đúng là cũng kiểu kiểu như thế, tỷ lệ lợi nhuận có thể 1 ăn 10 đến hơn nữa.

Tuy nhiên trong những mặt hàng đó, vài kẻ thức thời đã nhận ra là nhu cầu đối với hàng may mặc là số 1. Dòng hàng chảy liên tục, nhu cầu ngày càng tăng vì sau bao nhiêu năm bao cấp, thời trang đã là một thứ chả ai nghĩ đến. Nhưng mặc đẹp lại là nhu cầu không thể phủ nhận. Mấy mươi năm hình ảnh những bà già Nga ngồi trên cái ghế sofa đan những chiếc khăn choàng màu xám xám với chú mèo nghịch cuộn len dưới chân như một hình ảnh thuần Nga. Nhắm mắt và tưởng tượng nhé: Những căn phòng chung cư bé nhỏ, chiếc thảm treo tường tone màu nóng với vài họa tiết hoặc một bức tranh Nga, những cậu thanh niên quần Tây áo sơ mi, những cô gái mặc những chiếc váy ngắn ngắn, cổ quàng một chiếc khăn nhỏ làm điệu, những chú bé với thời trang mùa hè là chiếc quần short và áo sơ mi, nụ cười rạng rỡ với chiếc khăn quàng đỏ bất hủ, cô bé với chiếc váy nhẹ thêm cái yếm dạng tạp dề, tóc cột chùm nhỏ hai bên và khăn quàng đỏ – dĩ nhiên. Nhận ra chưa các bạn, nước Nga của những năm tháng Xô Viết đấy.

Và lẽ dĩ nhiên, khao khát mặc đẹp nó đã dồn nén quá lâu rồi. Khi ấy những doanh nhân nhỏ bé kia nhìn ra và khuân đến nước Nga cơ man nào là quần áo. Những chiếc quần Jean đáng ao ước mà họ chỉ thấy trên phim bọn tư bản, những đôi giày bóng lộn, những chiếc khăn lụa duyên dáng, những chiếc váy nhiều màu… và hơn hết, những chiếc áo kutka (áo đông) lạ, đẹp và rẻ đủ cho ai cũng có thể mua được… đã cập bến Nga. Hàng quần áo bán đắt như tôm tươi, tôi có ông anh họ kể, có những hôm họ ra chợ bán hàng không kịp thở (bán lẻ thôi) có những thằng Nga đến mua chỉ cần là quần Jean là nó mua, to tý cũng được, chật tý cũng được, chúng nó đã chờ quá lâu để biến cái giấc mơ Jean thành sự thật rồi.

Thế rồi những khu chợ chuyên kinh doanh hàng may mặc ra đời đi kèm với nó là nhu cầu về việc sản xuất tại chỗ để giảm chi phí. Đương nhiên nhân công Nga bị loại đầu tiên. Người Nga sau những năm bao cấp đã nhiễm một thứ gọi là thói quen trì trệ hơn nữa, một cách trần trụi mà nói, họ sẽ không bao giờ làm việc 18h mỗi ngày.

Người VN thì có thể!

Đương nhiên chả ai muốn, họ bị bắt làm thế! Họ, một số ít, trở thành nô lệ cho những đồng bào của mình! Bị buôn đi bán lại, bị kiểm soát chặt chẽ, bị tước hết giấy tờ,… Tất nhiên có khá nhiều điểm sáng trong cái thế giới chủ xưởng may, nhưng cũng khá nhiều những góc tối.

Họ sang Nga thế nào?

Có nhu cầu sẽ có cung ứng. Việc nhập khẩu nhân công Việt khi nó trở nên cấp bách thì sẽ có những kẻ đứng ra làm thôi. Họ được gọi là môi giới. Có kẻ là do các công ty cử đi có kẻ tự lập công ty độc lập… hầu hết đều kết nối với công an hay hải quan Nga nhằm chuẩn bị cho bước nhập cảnh và kiểm soát nhân công sau này.

Thuở ban đầu thì chưa có nhiều xưởng và số thợ của mỗi xưởng cũng không nhiều, thực ra gọi là xưởng thì hơi quá vì lúc ấy mang tính thời vụ và không chuyên nghiệp. Nhưng lợi nhuận từ những đợt hàng đã khiến cho việc mở xưởng trở nên thực sự là miếng mồi ngon. Những kẻ môi giới trở về nước, tổ chức tuyển nhân công với bao lời hứa hẹn về mức lương 200$ hay 300$ (sau này lên 500$, hoặc cao hơn cho thợ lành nghề)… biết bao cô gái chàng trai thanh niên ở quê trở nên điên cuồng vì con số ấy. Lúc ấy vài trăm $ là số tiền không nhỏ tí nào. Ai cũng nghĩ sang đây chịu khó vài năm là có vài nghìn $ vác về. Mà vài nghìn $ khi ấy ở quê mua được cơ man nào là thứ.

Thế là họ ra đi, vay tiền đưa cho môi giới để làm thủ tục, cũng 1–2k$ bảo là tiền khám sức khỏe tiền vé, tiền linh tinh, sau này tăng lên 4–5k$. Mọi người đều háo hức, các bậc trưởng thượng đi khắp nơi khoe với nhau về thằng con đứa cháu sắp đi Liên Xô, lương cao lắm,… hy vọng tràn đầy những ngóc ngách đường làng.

Tôi không chỉ nhìn mặt đen tối, không các bạn lại bảo tôi cứ chê bai nước Nga hay đồng bào mình. Đơn cử tôi cũng biết vài người sang đây may mắn lọt vào vài xưởng khá được, lương trả đầy đủ, điều kiện ăn ở tạm tạm, hàng bán được nên sau vài năm cũng có cái này cái kia. Đợt 2011 có thằng bạn tôi làm nghề mua hàng điện tử cho dân chợ (tức là nếu anh thích con iPhone, anh xem ở cửa hàng giá 25k Rub, em mua trên mạng cho anh giá 22k Rub, em lấy anh 23500 thôi, anh em cưa đôi lợi nhuận, anh mua rẻ hơn, em có tí tiền, em cài hết cho anh những gì anh cần dùng như ứng dụng, đọc báo…) đã trúng mối hàng cho công nhân ở xưởng may đặt mua hơn 15 con iPhone mới nhất, vì sau 1 năm nợ lương lão chủ trúng cú lớn nên trả lương sòng phẳng cho anh em sau khi trừ phí ăn ở – trường hợp cực kỳ cực kỳ hy hữu – mỗi bạn trẻ có gần 3000$, thế là chơi sang 1 anh 1 con iPhone. Đấy tư duy của người làm công cũng chỉ có thế: có tiền thì mua đồ tiêu dùng cho sướng đã, cấm có ai nghĩ đến dùng tiền làm gì khác.

Những trường hợp may mắn phần nhiều là do họ được làm ở những xưởng TRẮNG (có giấy phép) hoặc XÁM (giấy phép 500 công nhân nhưng thuê hơn 2000…). Phần lớn những công nhân khác sẽ vào xưởng ĐEN (không giấy phép). Họ sẽ gặp cú shock cực nặng ngay đêm đầu tiên ngủ lại nước Nga. Sau khi đón ra từ sân bay (hải quan cho đám công nhân này – phần lớn ăn mặc khá quê và dùng hộ chiếu du lịch thời hạn ngắn – sang một dòng riêng để đợi thằng chủ hay bảo kê vào làm thủ tục). Các bạn công nhân đứng chờ 3–4h mới qua cửa là chuyện rất bình thường, hộ chiếu bị chủ thu ngay lúc ấy với lời hứa hẹn để làm giấy tờ, xong anh (chị) trả. Và họ đ** bao giờ dễ dàng trả, ở cái xứ Nga, dân VN mất hộ chiếu chả khác gì con chó bị xích, tuyệt không thể đi đâu quá xa nơi sinh sống, cảnh sát bắt được là rất tốn!

Vừa đói vừa mệt, họ bị đưa lên xe và chở thẳng về xưởng – mà thường là ở thành phố xa, ít cũng cách Moscow 100–200 km không thì còn xa hơn. Thực ra lũ vận chuyển cũng thích đi đêm, như thế họ sẽ vào đến xưởng giữa khuya và sẽ ít bị dân xung quanh để ý. Nơi họ sẽ ngủ lại thường là một góc của xưởng với những tiện nghi rất tệ hại. Giấc mơ Liên Xô sẽ vỡ vụn ngay trong giấc ngủ đầu trên xứ này.

Ngày hôm sau hoặc 1–2 hôm sau họ sẽ được làm quen với xưởng, với những công nhân may ca tối vừa trở về ngủ lúc tờ mờ. Câu chuyện thường ngắt quãng và sớm kết thúc vì những người công nhân cũ kia cũng quá mệt sau một ca thâu đêm. Họ, nếu may mắn, sẽ chưa làm việc ngay mà sẽ được nghỉ ngơi 1 ngày, thậm chí có nhóm còn được gặp và nghe dặn dò vài việc quan trọng từ một vài sinh viên ngành y được chủ xưởng thuê đến hoặc vì là người quen biết (tất nhiên có tiền).

Các sinh viên Y nói về những gì với họ? Đầu tiên và quan trọng nhất là họ cần giữ ấm để không bị phát hiện vết mờ trên phổi, nếu bị đồng nghĩa với về nước. Thứ hai và quan trọng hơn cả, các cô gái xin đừng mang thai! Điều tưởng như buồn cười này lại là điều xảy ra khá thường xuyên và đưa đến rất nhiều bi kịch. Xa gia đình, làm lụng khổ, sự đồng cảm đưa những thanh niên đến với nhau và việc quan hệ tình dục là điều khó tránh. Họ có thể quan hệ ở nhà vệ sinh, sau cánh cửa kho hàng, ngoài trời cạnh bên xưởng, lúc mọi người ngủ say,… mọi nơi và mọi lúc có thể. Ai trong chúng ta trải qua thời thanh niên mà không hiểu cái khát khao xác thịt nó lớn đến thế nào. Nhưng họ, những người mới bước ra từ những miền quê, chưa bao giờ nghĩ đến thứ gọi là tránh thai. Chả ai dạy họ vì đó là điều xấu xa ghê tởm và trái đạo đức theo cái chuẩn mực của cái lũy tre làng. Cha mẹ họ cũng có ai nói đâu vì chắc gì ông bà biết, nếu biết đã chẳng có chuyện nhà họ 6–7 anh em. Thế là họ cứ sướng, sướng, sướng… mọi nơi, mọi lúc cho đến khi những cơn ọe ói đầu tiên báo cho cô gái biết cô ta dính bầu. Mà dính bầu chưa cưới lại cũng là một chuyện động trời mà họ được dạy từ bé trong khuôn khổ đạo đức lũy tre làng. Thế là cố mà giấu, giấu đến khi không giấu được nữa thì cũng không phá được nữa. Mà đẻ ra thì làm sao nuôi khi mà bố mẹ nó oằn mình ra làm 16–18h trong xưởng. Bi kịch bắt đầu từ đó.

Quay về với hoạt động xưởng. Các công nhân sau khi đã biết mình cần làm gì thì bắt đầu làm quần quật, những người mới sang chưa thạo nhưng được cái đang tràn trề hy vọng. Họ cứ làm và mơ đến 2–300$ đầu tiên. Nhưng khi đến cuối tháng họ mới biết 200–300$ ấy sau khi trừ đi chi phí ở và ăn thì chả còn mấy. Bữa ăn của họ nếu mùa hè còn đỡ vì còn có rau người Việt trồng chứ mùa Đông thì toàn bắp cải xào hay cà rốt hay các loại củ nói chung. Bữa ăn mấy trăm công nhân thông thường do một nhóm riêng lo hoặc đôi khi ông chủ phân công công nhân chia ra nấu. Hằng ngày hằng tuần sẽ có những chuyến xe chở thực phẩm một lần cho xưởng. Nói chung ăn thì không đói nhưng cũng chả ra cái gì. Họ, những công nhân mới học việc giỏi lắm thì dư 100$ là cùng. Công nhân lành nghề thì lương cao hơn, có những người được hẳn 500$ sau khi trừ chi phí, những người này luôn là đối tượng giành giật giữa các xưởng.

Lâu lâu xưởng lại bị ĐẬP, tức là có chuyện gì đấy thì công an được lệnh đập, tạo thành tích kiểu như bắt mại dâm mừng 2-9 gì đấy. Khi ĐẬP thì thường bất ngờ và có báo chí quay phim, nhưng khuất sau những thước phim sẽ là mảnh giấy nhỏ một được cảnh sát nào đấy dúi vào tay chủ xưởng về thời gian hôm sau lên nhận lại máy móc tịch thu cũng như người phải liên hệ để có vị trí mới để lập lại xưởng. Mỗi đợt lại trục xuất vài chú công nhân xui xẻo, mất vài chục k$ để lấy lại máy và vài ngày hay tuần để lập lại xưởng và đi vào sản xuất. Lâu lâu thì xưởng ĐEN bị ĐẬP thật và khỏi lấy lại máy, xưởng tan, công nhân tứ tán, có người nhận lại hộ chiếu, có người không. Họ lại tỏa đi sang các xưởng khác nhờ sự giúp đỡ của bạn bè…


Đi học thì sướng, đi làm thì khổ. Thôi viết tý cho các đc ở đây hiểu tình hình nước Nga:

Nga nguy hiểm với người nước ngoài không?

Có, ai bảo không vả vỡ mồm, nhưng tùy thời điểm. Trước 2003 khá phức tạp, tình hình hoạt động của trọc khá kinh, các bác cảnh sát cũng thích vặt của các đc Việt. Mà vì sao, móa, đơn giản vì các anh đék biết tiếng Nga.

A đù, có bác buôn hàng bên Nga hơn chục năm mà hỏi cái đék gì cũng Đa với Nhẹt! Loạn! Nên cảnh sát nó biết có vặt cũng đék biết kiện, vặt thôi! Mà cũng bởi lúc ấy Nga thay đổi nhanh quá, lương công an cảnh sát không đủ sống, dân Việt buôn bán thì giàu quá (ít ra hơn bọn công an lúc ấy nhiều lắm) đôi khi cũng sinh tâm lý bọn mày làm giàu trên nước tao, trong khi tao bảo vệ an ninh cho bọn mày bục mặt ra lương một tháng không bằng bọn mày thu nhập một ngày. Đôi khi thế, thế mới đời!

Rồi cũng phần lớn là do dân mình với bọn Tàu làm hỏng người Nga, trước phần đông nhân viên công vụ Nga khá tốt và thật (nghiêm túc – tầm những năm 70–80). Sau dân mình sang, cái gì cần thủ tục cũng hối lộ cho nhanh, ban đầu thì cái socola, chai rượu, tý xúc xích,… sau thì cái áo len,… dần dần dân Nga ăn quen mõm. Thế nó mới trở nên thế này! Tất nhiên còn nhiều lý do vĩ mô hơn mà không thể nói ngắn được, nhưng góp phần tha hóa người Nga thì đék thể phủ nhận vai trò của ông Tàu và ông Việt!

Nga có tiềm năng kinh tế cho người Việt không?

Trước có, giờ không! Trước hàng tiêu dùng Nga ít, nên cũng phải nói công tâm rằng nhờ VN với Tàu và Thổ mà dân Nga có quần áo rẻ tiền mà mặc, tuy nhiên cái gì đi từ sai trái thì kết thúc luôn tồi tệ. Hầu hết hàng thời ấy đều lậu và fake. Khi nước Nga vượt qua được quãng thời gian khó khăn thì số người ra chợ mua quần áo đã giảm một cách đáng kể. Khi mà mặc đồ hiệu trở thành một dấu hiệu để tỏ ra sành điệu và giàu có thì chợ tạm, chợ trời ở Nga bắt đầu đi vào ngõ cụt. Trong khi đứng trước những thay đổi đó, Thổ và Tàu tìm cách chuyển sang hình thức kinh doanh chính quy thì hầu hết các bác Việt vẫn như con trâu, cứ thế lầm lũi đi tiếp. Cũng đúng, muốn chuyển đổi thì đầu tiên tiếng Nga phải có trình độ nhất định, các bác VN thì cực kỳ kém và thiếu ý thức học tiếng bản địa.

Hơn nữa cái cộng đồng VN bên này nó chán vãi đái, không có tính đoàn kết, hãm hại nhau thì chỉ cần có cơ hội là chơi. Các nhóm nhỏ thì còn than than chứ xu thế của cả cộng đồng thì đíu ra cái gì. Trước còn báo công an để chặn xe hàng của nhau hay xét hàng lậu của thằng khác nữa. Nói chung cảnh sát kinh tế Nga mà nghe nói đến các bác VN thì chỉ có cười khinh. Bọn Tàu thì cực kỳ đoàn kết, bọn Thổ ít chơi ít biết, bọn ấy thì nổi tiếng láu cá và lừa lọc.

Đầu trọc có nhiều không?

Chỉ có hoạt động cực mạnh khi kinh tế Nga đi xuống. Như năm 2003 hoạt động mạnh, mấy năm sau kinh tế khá ít trọc hẳn. Năm 2008 oánh Gru kinh tế mùa hè năm ấy rớt thảm, ngay năm sau trọc đã lại xuất hiện và hoạt động mạnh trở lại. Sau đó từ cuối 2010 đến giờ rất ít nghe thông tin về trọc. Không biết sau vụ cấm vận của EU thì thế nào? Dù sao có lần một cụ giáo hỏi mình: “Mày biết sao bọn tao thắng được Phát xít không? Vì khi cần bọn tao còn phát xít hơn cả phát xít!”

Thế hệ thứ 2 ở Nga thế nào?

Nói chung là tiếp xúc nhiều cũng thấy, đứa thì tồ, đứa thì láu cá, có đứa còn cực ghét Việt. Tùy giáo dục từng gia đình. Nói chung, gia đình nào mà bố mẹ quan tâm con cái thì cũng đỡ. Tỷ lệ rất ít chúng nó hòa nhập thực sự và muốn ở lại Nga (khác hẳn so với đám ở Mỹ hay Phần Lan,…). Phần đông đều không thực sự muốn phát triển ở Nga hoặc tiếp nối và phát triển sự nghiệp kinh doanh của bố mẹ – tình hình chung, gia đình nào cũng muốn con học toán, y như VN, nhưng rất ít đứa học đại học đàng hoàng. Mấy năm gần đây thì có xu hướng các cụ đưa con cháu sang Mỹ và châu Âu nhiều. Nhiều nhà cũng đã tính chuyện định cư luôn.


Những ghi chép từ một SV làm thêm

Chuyện thứ nhất: Những cặp vợ chồng lạ lùng.

Lần đi làm thêm đầu tiên của tôi là dạy vi tính. Đó là một công việc lạ vì ở năm 2003, máy tính vẫn còn là cái gì đó khá xa xỉ và ít tác dụng với người VN (thời ấy các báo điện tử chưa nhiều cũng như chưa đa dạng, người VN chủ yếu dùng máy để xem phim, chơi game, chat YM). Học vi tính là một nhu cầu cần thiết nhưng việc thuê thầy lại là một chuyện lạ vì thường họ học qua nhau.

Nhận thông tin từ một anh trong KTX có di động (thời ấy – 2003 – di động với SV là khá đắt). Nhận đầy đủ thông tin người cần học, địa chỉ và số phòng. Người học là nữ, mình nghĩ là học sinh, muốn học để biết dùng vi tính. Đến ngày hẹn mình ăn mặc sạch sẽ và đi đến nhà người muốn học. Trái với tưởng tượng, người đón mình là một phụ nữ khoảng hơn 30, cao và khá gầy. Chị bảo vào uống trà để thỏa thuận việc dạy và học. Đó là một căn hộ hai buồng khá tươm tất nằm gần metro. Thông thường để thuê được căn hộ như thế ở một nơi như thế thì họ phải là một gia đình làm ăn được. Tách trà chị mời cũng là một loại tách khá sang. Qua câu chuyện, chị nói muốn biết cách mở máy, dùng máy, xem internet, chat… Thế thì quá dễ dàng đối với mình.

Đầu tiên là mở máy, khi chiếc nút nguồn được bật, mình bắt đầu nói sơ về những nút trên case, nguồn, reset các kiểu. Chị cũng có ghi chép lại khá kỹ. Cái cách chị cầm bút và ghi nhanh cho thấy có lẽ chị cũng không phải đơn giản là người xuất thân lao động chân tay. Khi vào màn hình chính thì một tình huống khá ngượng làm chị em cũng ngại. Ảnh nền là một em Tây mặc bikini ngồi xổm bên cạnh một cái moto, cái kiểu ảnh sexy Âu Mỹ ấy hình như là khá mốt tại thời điểm đầu những năm 2000. Chị cũng hơi ngại và bảo cái này anh làm, chị cũng không biết. Quên chưa nói, ảnh chụp vợ chồng thì anh chồng khá phốp pháp, bặm trợn nhưng không hiểu sao tôi vẫn thấy nét trí thức chứ không phải dân xã hội.

Tôi dạy ngay cách bật My Computer, thực ra là để cái cửa sổ nó sẽ choán hết màn hình cho đỡ ngượng. Quả thật, lúc ấy cũng xẹt qua đầu là không biết bà này có muốn nuốt mình không nữa. Sơ lược buổi đầu mình cũng chỉ muốn dạy chị ấy mở máy, tắt máy, lưu tập tin, xóa, lập thư mục,… và những cái ấy chị ghi chép khá đầy đủ. Bảo chị về nhà thử lập thư mục tên gì, lưu file gì,… cho quen, hôm sau em dạy dùng internet. Rồi nhận tiền về, thời điểm ấy, 1,5h dạy nhận khoảng 10$ (300 rub).

Hôm sau tôi đến, chị có vẻ chờ khá lâu. Chị bảo tôi ngồi chơi rồi chị đi pha trà. Tôi bật máy, màn hình nền vẫn thế. Không có chị tôi đỡ ngượng và nhìn kỹ màn hình thì thấy, thực ra ngoài những cái mặc định thì chỉ có vài cái shortcut cho game, giờ thì cũng chả nhớ đó là game gì nhưng tuyền chỉ có game.

Tôi mở thử IE (thời đó tôi cũng chỉ biết dùng IE làm trình duyệt chứ chưa nghe nói tới Mozila hay FF, còn Chrome thì mãi sau này). Khi gõ thử vào address chữ “y” để vào Yahoo (nói luôn là tìm kiếm Yahoo thời ấy hình như là duy nhất với SVVN) thì nó hiện ra một lo một lốc các tên trang web đã vào có chữ “y” và rất nhiều trong đó có liên quan đến “cõi tt”. Tôi mới chợt nhận ra hình như ông chồng chị rất hay vào đấy. Thử kiểm tra history thì thấy đúng là thế thật. Đang lúc kiểm tra history thì chị đã bưng trà đứng sau lưng lúc nào không biết. Mình cũng giật mình. Chị thấy mình bối rối nên cũng thở dài một cái. Sau đó, buổi học thứ hai trở thành buổi nói chuyện giữa hai chị em. Chị kể rằng chồng chị không biết nghe ai nói nên mua về một cái computer, nói là để học này kia nhằm làm sổ bán hàng, nhưng chị biết anh chỉ dùng nó tìm kiếm nội dung đồi trụy và chat với những cô gái không quen. Câu chuyện nó cứ lê thê thêm một chút và chị cứ nói như thể chị cần người để nói. Mình thì ngượng nên cũng không dám nói gì. Cuối cùng tóm lại chị thú nhận là muốn học vi tính để biết ông chồng xem cái gì, chat với ai. Mình bảo là xem cái gì thì em chỉ chị, chứ chat với ai thì em không biết cách dò pass YM của anh ấy đâu. Em chịu. Thế rồi mình dạy chị cách xem history và ra về với 300 rub nữa. Sau ấy mình không đến nữa vì thực ra là không muốn dính vào chuyện nhà người ta.

Một lần khác, khoảng 2007 mình đi dạy thêm cho một thằng cu lớp 5. Mọi chuyện sẽ rất tuyệt (vì họ trả đến 20$) một buổi 2h, gần gấp đôi nhà khác. Sẽ chẳng là gì nếu như không phải mỗi ngày mình đến dạy ông con thì ông bố nó lại cứ 5p một lần. Lão ấy chơi Game online, trò MU hay sao ấy, giờ lâu quá cũng khó nhớ. Nhưng đúng là mình đến bất cứ lúc nào cũng thấy lão đánh game và hô ĐM. Ông con bảo bố cháu chẳng đi làm gì, toàn ở nhà chơi, mẹ cháu đi làm hết. Nếu nói về mặt ngoại hình thì đó là một cặp vợ chồng khá chênh lệch. Lão chồng cao, trắng đẹp như công tử HN, bà vợ chắc chưa đến 1,5m, người tròn, mặt cũng tròn, môi dày mũi đầy. Nói luôn là chị xấu. Đôi khi tôi đang dạy thằng con, chị từ chợ về, tôi thấy cái cách mà chị nhìn lưng của chồng khi chị đứng cởi cái áo đông nặng trịch ra nó cứ buồn đến lặng cả người. Lão chồng chỉ hỏi được một câu trống không như kiểu về rồi à, hôm nay ăn gì? Kiểu kiểu thế. Chị xắn tay áo làm cơm, lão chồng vẫn gác chân lên bàn tay di chuột đồ sát. Ai đã từng cảm nhận cái mùa đông nước Nga sẽ hiểu sự mỏi mệt sau một ngày đứng ngoài trời giá rét, chợ Võm khi ấy không như Liu sau này, nó chỉ có một dạng mái vòm mỏng giúp chắn bớt tuyết chứ không chắn được những cơn gió thốc buốt luồn giữa những dãy sạp hàng. Nhất là chị lại là phụ nữ!

Có lần mình dạy thêm ở một căn hộ trên khu chung cư dành cho nhân viên ĐSQ. Nói là nhân viên thì cũng trăm loại nhân viên, bà quét rác sứ quán cũng là nhân viên. Thông thường mỗi người được 1 suất căn hộ ở đấy, căn hộ 2 buồng. Họ sẽ ở buồng to, buồng nhỏ cho dân ngoài thuê giá khoảng 4-500$/tháng cho căn buồng 9-12m².

Lần ấy dạy cho con của bà nhân viên. Căn buồng nhỏ được hai người thuê, bà chủ bảo họ là vợ chồng. Lão được gọi là chồng chắc hơn mình 3-4 tuổi, là dân NCS (thế mới sợ) còn bà vợ hơn lão này ít cũng 1 giáp. Bà già hơn hắn nhưng nhìn khá xôi thịt. Bà yêu hắn, cái đó chỉ cần nhìn cách bà rướn lên phủi phủi tuyết đọng trên vai áo hắn khi cả hai vừa ở ngoài vào là biết. Hắn không yêu bà, nhìn cái cách hắn khó chịu khi việc phủi tuyết của bà bị mình liếc thấy là biết. Thế mà họ vẫn sống với nhau trong một căn buồng. Cho đến một ngày mình đang dạy thì thấy bà xộc về, vào phòng. Tiếng động trong phòng cho thấy bà đang lục lọi gì đấy, lúc sau bà khóc, tiếng khóc to dần. Hôm sau mình đến, dạy xong ông bà chủ bảo ở lại ăn cơm. Trong bữa ăn mình hỏi dò thì bà chủ sẵn đang bức xúc nên kể hết. Thằng kia đã có vợ con ở nhà, mà hắn có đẹp đẽ gì, được cái dẻo mỏ. Học NCS nhưng suốt ngày lân la ra chợ tìm cách đi buôn, nhưng lại kẹt xỉ, thế là chẳng ai muốn cho chung chạ gì. Thực ra, vốn của lão chẳng đáng gì để mà dân buôn thèm để ý, cái chính là lão kẹt xỉ quá nên chẳng ai muốn chơi chung. Thế nào lão gặp bà, bà dù đã qua tuổi xuân sắc, gia đình cũng lại đổ vỡ. Chồng trước của bà vì giàu lên quá nhanh nên lao vào bài bạc, cuối cùng những gì gom góp được mất tất, lão bỏ bà lại với cục nợ rồi trốn về VN. Sau nghe bảo đi đào vàng, rồi bật tin. Bà coi như lão đã chết.

10 năm lăn lộn bà cũng hết nợ, rồi cũng đã qua cái tuổi khỏe mạnh và khát khao, bà bằng lòng với việc kinh doanh lặt vặt hiện tại, thu nhập tròm trèm 1-2k$ hay hơn một chút cho mỗi tháng. Nếu khéo vẫn để được ít nhiều gửi về nuôi con. Quên kể sau khi lão chồng chạy thì bà có đứa con nhỏ trong tay, phải gửi con về VN để cày trả nợ, hơn chục năm cả gặp được nó mấy lần.

Thế rồi bà gặp hắn, chẳng hiểu bà tìm thấy ở hắn cái gì hay những lời dẻo mỏ của lão kích trúng cái khát khao đàn ông đè nén chục năm nay. Bà lao vào hắn dù biết hắn có vợ con ở nhà. Hai người dọn vào sống chung, nhục một cái khi trả tiền cọc thì hắn viết hợp đồng bảo hắn góp 1 nửa, bà 1 nửa, tính ra một người khoảng 1,5k cọc thuê nhà. Nhưng khi góp tiền hắn bảo hắn không đủ bà cho hắn mượn tạm. Và đương nhiên hắn không trả. Cho đến cái ngày hắn đá bà, hắn lại đưa cái giấy hợp đồng ấy ra và bảo bà nợ hắn 1,5k tiền cọc, còn chuyện hắn mượn bà đóng thì chẳng có gì làm chứng. Bà chửi hắn, hắn bảo hắn đã lấy tiền dưới gầm tủ của bà rồi, bà không cần trả nữa, rồi hắn bye bye bà. Đó là lý do bà chạy về kiểm tra gầm tủ rồi khóc ngày hôm trước. Tôi nghĩ bà không phải tiếc, 1,5k đối với lão NCS kia có thể lớn chứ với dân làm ăn, kể cả làm ăn bé như bà, nó cũng chẳng là cái gì. Có lẽ bà khóc vì tức, vì tủi cho cái phận của mình. Những tiếc nấc nghe của bà mãi sau này đôi khi tôi vẫn nhớ. Sau một thời gian tôi cũng nghỉ dạy và cũng không gặp lại bà lần nào.

Một lần khác tôi nhận được mối mua máy vi tính từ một người đàn ông. Thỏa thuận xong tôi mang máy đến giao thì lão mời tôi ở lại uống ly bia. Lần đầu trong đời uống bia với ngọc kê luộc (ở bên này các bộ phận này họ bán theo kg). Đang uống thì vợ lão về, sa luôn vào uống bia và nhai ngọc kê rau ráu. Nói thật thấy một chị phụ nữ bỏ hòn ngọc kê vào rồi cắn nát nhai rau ráu, tôi cứ thốn thốn. Sau ăn cũng chẳng vào. Chị ăn nhanh, uống cũng nhanh rồi cũng hỏi han tôi đủ kiểu. Thành ra việc giao máy đáng ra 15p thì nó lại kéo ra đến hơn 5h đồng hồ ăn nhậu. Trong câu chuyện hai anh chị cũng kể thì ra họ cũng chẳng phải vợ chồng, lão có vợ, chị có chồng, chỉ là vợ chồng họ ở VN cả. Sang đây xa nhà thì ghép với nhau. Có lẽ vì nhu cầu, có lẽ vì điều gì khác nữa thì không biết. Lão mua máy để chị chat với chồng con ở VN, con chị đã 8 tuổi, và nó có nhu cầu nói chuyện với chị. Nên để cẩn thận, phòng chị không có móc áo trên tường để đề phòng lỡ quên móc quần áo đàn ông lên đấy khi chat con chị có thể thấy. Còn lão thì bảo vợ chồng lão cưới nhau nhưng không có con, chẳng biết tại ai. Lúc ấy vợ chồng nghèo, xóm giềng lại cứ lời ra tiếng vào vì chuyện con cái thế là lão làm liều đi mẹ nó sang Nga làm đầu bếp cho cái quán ăn nhỏ ở thành phố xa, sau quán dẹp, lão lưu lạc lên chợ Võm rồi làm lặt vặt cuối cùng cũng có việc làm ăn nhỏ bán vài thứ vặt vãnh và sống đến giờ. Lão bảo cả tháng lão mới gọi về cho vợ một lần, vợ lão chẳng biết quái gì về internet cả mà cơ bản là xa nhau lâu quá, cũng chẳng còn gì để nói với nhau. Họ vẫn là vợ chồng vì họ chưa bỏ nhau. Vậy thôi!

Còn nhiều lắm những cặp vợ chồng lạ lùng trên cái xứ này. Có rất nhiều gia đình thành công và hạnh phúc, có nhiều gia đình chỉ được một trong hai điều ấy. Có gia đình sau khi giàu lên (giàu lắm ấy) thì lão chồng bắt đầu tăm tia gái. Chắc ai sống ở Mos mà từng tham gia ba cái hội đồng hương, mấy chương trình ca nhạc có ca sĩ hoa hậu trong nước sang thì cũng chẳng lạ gì mấy em hoa hậu hay ca sĩ ấy trước và sau khi biểu diễn thường là được bố trí ở phòng riêng ở khách sạn chứ không chung với ai. Tôi thì tôi biết có ít nhất 2 hoa hậu một người rất cao và một người rất xinh từng sang đây phục vụ đại gia. Và một ca sĩ rất bốc đã từng được khen là gái ngoan nhưng sau có chụp một bộ ảnh sexy cho NAM Magazine cũng từng sang đây chung với đoàn nhưng khi diễn xong đoàn thì về còn cô ở lại thêm 1 tuần đi du lịch, ai chả biết cô du lịch với ai!

Có cặp còn chẳng bao giờ muốn nhìn mặt nhau dù sống trong một mái nhà. Cái xứ lạnh này như một mỏ tiền cho những con người chăm chỉ, thông minh và chịu làm việc. Nhưng cái xứ lạnh này cũng là nơi người ta tự tay phá bỏ đi rất nhiều giá trị thuộc về đạo đức hay tinh thần. Có những gia đình rạn vỡ, có những gia đình chất đầy sự hận thù lẫn nhau, có gia đình đầy ắp tiếng cười và sự yêu thương nhưng cũng có những căn phòng mà mỗi người lại cô đơn một kiểu.


Tiếng Nga trên đất Nga

Thật lạ là với những con người đã lăn lộn ở nước Nga này hơn chục năm (cá biệt có người hơn hai chục năm) tiếng Nga vẫn là một rào cản không thể vượt qua. Mỗi ngày của họ đều là lăn lộn giữa những thùng hàng và những lo toan nhập và xuất. Tiếng Nga mà họ nói chỉ là vài chữ Davai (làm đi, đi đi,…), idu (đi bộ chia cho ngôi thứ nhất) cho mọi ngôi nhân xưng, những con số pít-sót, sem-sót (500, 700…), ya, tưi (tao mày) cho mọi cách, mọi thì. Giống, thì và cách như chưa bao giờ tồn tại. Thật lạ là cái thứ tiếng Nga ấy khi bước vào chợ ai cũng hiểu. Và họ trao đổi với nhau hồ hởi thân thương bằng cái thứ tiếng Nga lạ lùng ấy mỗi ngày.

Nhưng bất cứ khi nào bước ra khỏi cổng chợ, cái thứ tiếng ấy, như một lẽ đương nhiên, không còn được ai chấp nhận. Họ trở thành những người câm múa may.

Rất nhiều trường hợp chỉ có tiếng Nga chuẩn mực được chấp nhận. Va quẹt xe bên này mà va quẹt xe có hỏng hóc là hai bên xuống xe, mỗi người gọi cho bảo hiểm và sẽ có người gọi cảnh sát, nếu không sai, xe sẽ được bảo hiểm chi trả tiền sửa sau khi bảo hiểm nhận được biên bản cảnh sát xác nhận lỗi không thuộc về người mua, cũng có loại bảo hiểm họ trả kể cả khi mình sai, nhưng loại ấy đóng nhiều tiền hơn. Khi cảnh sát đến sẽ đưa cho mỗi bên một bản tự khai để mô tả tình huống tai nạn, lúc ấy là lúc tiếng Nga chính quy cần xuất hiện. 2-3000 r cho một lần kê khai, có khi rẻ hơn, có khi đắt hơn tùy ai là người được gọi và tùy xem ông bị tai nạn gà tới đâu.

Khi đổ bệnh, mà thường là nặng chứ bệnh nhẹ nào dân mình chẳng tự chơi kháng sinh với dầu gió tự chữa, cần đến bệnh viện, tiếng Nga lại là thứ phải trả tiền. Một sinh viên Y khoa nào đó sẽ được gọi làm phiên dịch cho họ. Một ngày ít cũng 50$ trừ mọi chi phí. Lúc ấy 50$ với sinh viên to lắm. Khi cần mua hay bảo hành đồ điện tử cũng cần tiếng Nga. Khi mua sắm máy móc và nguyên vật liệu xưởng may cũng cần tiếng Nga. Có lúc sinh viên được gọi, có lúc là dân chuyên nghiệp.

Dân chuyên ở đây là những người từng là phiên dịch cho đoàn xuất khẩu lao động cũ những năm 80 hay các sinh viên cũ thời ấy còn lưu lạc xứ này. Tôi thấy lạ một điều là rất nhiều người như thế lại không giàu dù họ nói thứ tiếng Nga chuẩn mực. Sau tôi mới hiểu họ thiếu hai thứ rất quan trọng để làm giàu ở xứ này: sự dữ dằn và máu liều. Và hơn hết tôi cảm nhận được trong tiềm thức họ chứa đầy sự khinh thường với lũ con buôn dốt tiếng Nga. Làm sao họ giàu được khi mà họ lại ghét người giàu đến vậy. Làm sao họ giàu được khi mỗi lần ăn uống với dân buôn họ đều gân cổ nói để tỏ ra mình hiểu biết, thông minh, điều đó làm dân buôn không hề thoải mái.

Tiếng Nga ở xứ này cũng là thứ phải trả tiền mới có. Không chỉ con buôn mà cả các nghiên cứu sinh. Đó là những người ngoài 30, hầu hết từ các trường đại học phía Bắc. Họ sang đây mưu cầu một mảnh bằng khi mà nước Nga là nước duy nhất họ có thể đi mà không cần chứng chỉ ngoại ngữ. Họ sang đây, lây lất mấy năm, tiếng Nga không bắt kịp để trò chuyện thông thường với giáo sư hướng dẫn. Khi không thể chịu đựng được nữa giáo sư cho họ bệnh viện. Luận văn họ đương nhiên không thể tự viết, đó là khi dân cực chuyên có việc làm. Giá cực đắt, có thể lên đến hơn 10.000$ cho một luận văn hơn 100 trang. Không sao, sau khi thành công họ sẽ vặt sinh viên gỡ lại. Thực ra tôi vẫn cho rằng ở đâu không biết chứ ở Nga, nếu muốn học nghiên cứu sinh, ít ra anh cũng phải từng tốt nghiệp đại học ở xứ này. Có như vậy tiếng Nga mới tạm đủ. Còn tốt nghiệp đại học trong nước rồi sang đây học PhD toàn bị tiếng Nga đánh gục.


Khu Sứ Quán

Tôi đến đó không biết bao nhiêu lần, nên thực sự mà nói tôi nhìn được khá nhiều điều rất lạ từ đó! Nơi này được mang tiếng là khu nhà của nhân viên ĐSQ VN, nghĩa là các nhân viên ngoại giao. Nhưng quả thật chẳng mấy người ở đấy thể hiện được tố chất hay phẩm chất người làm ngoại giao. Tôi không vơ đũa cả nắm nhưng đúng là ở xứ Nga, những người mà tôi thấy có nét và cách hành xử đúng chất ngoại giao là quá hiếm.

Đó là một căn nhà cao tầng nhỏ nằm trong một khu chung cư cao tầng (tôi gọi nó cao vì nó có thang máy, nhà dưới 5 tầng không có thang máy) được xây với nét Nga thời cuối Xô Viết. Ở giữa là một sân chơi cho trẻ em. Quả thật, nước Nga đã từng trải qua nhiều thăng trầm, nhưng dường như trong những lúc khó khăn ấy, trẻ em luôn là đối tượng được quan tâm. Hầu như rất dễ để tìm thấy một khu vui chơi bé bé với cầu trượt, bập bênh, xích đu dành cho trẻ em giữa những tòa nhà chung cư xây san sát. Trẻ em ở cái xứ này chưa bao giờ thiếu không gian để chơi đùa.

Căn nhà có 4 cửa với mã số chung. Trong đấy chưa đến 50% thực sự là nhân viên sứ quán, có kha khá khách thuê nhà. Lâu lâu lại có một đoàn khách trong nước sang, có khi cũng ghé vào đấy ăn uống. Người Việt chúng ta chỉ cần đứng với nhau thành một nhóm thì chẳng lẫn đi đâu được, ồn ào, vô tư reo rế, cười đùa ngắt nhéo nhau dù đó là một nhóm người đi buôn hay nhóm những nhân viên công vụ sang đây công tác. Mớ hỗn độn âm thanh ấy luôn là điểm chung. Họ cứ réo lên, cười sỗ sàng lên như thể sợ người ta không biết mình là người Việt. Thật ngại!

Cứ chiều chiều là đều đặn có lũ con nít VN chạy xuống chơi ở cái sân bé ấy, phần lớn chúng nói với nhau bằng thứ tiếng Nga rất chuẩn. Rất ít đứa dùng tiếng Việt để trao đổi. Vì từ bé chúng đã sống với Tây, khi còn bé nhiều đứa sống với người trông trẻ người Nga (các bà già nghỉ hưu hoặc phụ nữ trung niên nghỉ hẳn ở nhà trông trẻ cho người VN), lớn chút thì đi nhà trẻ Tây, đi học trường Tây. Bố mẹ chúng thường cũng chiều muộn mới về, ăn bữa cơm hỏi nó được vài câu thì lăn ra ngủ. Vẫn có vài gia đình dù đi buôn nhưng rất quan tâm việc học của con, yêu thương dạy dỗ con rất đúng mực, nhưng số ấy ít thôi. Và những đứa trẻ ở đây hầu như nếu đem cái chuẩn mực đạo đức VN thì đều không ngoan. Nhưng ai dám bảo cái chuẩn mực ấy đúng. Lũ trẻ ở đây khá láu, ít đứa khờ, khá thông minh, vài đứa khôn vặt từ bé, con gái thì phổng phao sớm, thích chưng diện nhưng cũng có vài đứa khá chân phương. Nói chung đủ cả nhưng có được cái là tôi thấy rất ít đứa đeo kính cận và hầu hết về mặt sức khỏe đều tốt.

Khu nhà người VN không ít lần bị cư dân địa phương viết đơn than phiền, tố cáo lên cả cảnh sát khu vực vì nhiều lý do: ồn ào, lũ trẻ phá phách, mất vệ sinh,… Nhưng rồi đâu cũng vào đấy. Khu nhà này không ít lần chứng kiến những vụ cướp tiền rất táo tợn, dù nó là khu ngoại giao và cách đồn cảnh sát chỉ khoảng 100m. Ở đây có nhiều người làm dịch vụ chuyển tiền đen (đóng vai trò trung gian trong hoạt động điều phối ngoại tệ trong nước và Nga cho các con buôn với chi phí thấp hơn dịch vụ ngân hàng, phí cho vay cao hơn ngân hàng nhưng không cần chứng minh tính hợp pháp của việc lưu trú của người đi vay).

Có những hôm có người nào đó vác tiền mặt về nhà, vừa đến cửa khu nhà, đang dừng xe thì ngay lập tức có một chiếc xe khác trờ sát tới, và vài đứa to cao (Nga hay Thổ đủ cả) nhảy ra. Nhẹ thì một đứa uy hiếp, bọn kia mở cốp lấy vali hay túi tiền, nặng thì nó tấn công trước rồi cướp. Kịch bản cướp rất quen và cực kì ngắn ngủi, đôi khi chưa đến 1 phút. Người có kinh nghiệm sẽ không bao giờ tỏ ý kháng cự! Ai cũng hiểu nếu bị cướp có nghĩa là đã có thằng nào đó bán tin cho bọn này (tất nhiên lũ báo tin cũng hầu như toàn người VN). Vì không phải ai cũng biết ngày hôm đó người ấy sẽ mang tiền về! Và hầu như đã cướp là chính xác đúng người, đúng hôm mang tiền! Chỉ có 1 lần có một người bị cướp 2 chai nước mắm vì đúng hôm ấy lão mua 2 chai nước mắm bỏ trong cái giỏ quen dùng đựng tiền rồi về. Về đến cửa thì bị cướp cái giỏ. Chả hiểu thằng cướp nó có suy nghĩ gì khi mở cái giỏ ra?

Khu nhà này trải qua không biết bao năm thăng trầm với người VN. Nó chứng kiến rất nhiều giai đoạn, từ cái khi những thùng hàng nồi cơm điện dây mayso của các chú Sứ đặt đầy sân đợi chở ra ga cho đến những năm tháng sân nhà toàn xe hơi đắt tiền đậu. Nó chứng kiến bao nhiêu là số phận con người, bao nhiêu là gia đình hạnh phúc cũng như vỡ vụn trong vòng xoáy của một giai đoạn nước Nga lạc lối! Nhiều đứa trẻ lớn lên ở đây, bao nhiêu đứa còn hoài niệm về khoảng sân nhỏ sạch sẽ và ồn ào ấy?

Tôi đã đi qua khu nhà này biết bao nhiêu lần, có đôi khi đến đây cũng giúp nguôi ngoai đi cái nỗi nhớ về một góc phố VN ồn ào và lộn xộn mà tôi đã xa quá lâu rồi.


Nước Nga của những tình yêu vĩnh cửu

Trời tuyết rơi nhẹ, kiểu thời tiết điển hình của nước Nga những ngày đầu Đông. Tuyết như những hạt cát biển trắng tinh rơi nhè nhẹ, khẽ lăn trên vai, khẽ đọng trên mũ hay găng tay. Đường phố hơi ướt, cái cảm giác bước chân cứ bèm bẹp khi đi bộ trên hè đường trong những ngày này không dễ quên nếu phải rời xa nơi đây. Hè đường nước Nga thường rất sạch và tuyệt đối không có quán nhậu nào cả. Kể cả mùa Hè.

Leo lên xe bus ra metro. Chiếc xe bus êm êm bắt đầu lăn bánh, xe bus xứ này không được đúng giờ như Châu Âu, không xinh xắn hiện đại như Nhật Hàn nhưng vẫn tốt gấp trăm lần Việt Nam. Không có lơ xe, không có phóng nhanh vượt ẩu, rất ít bấm còi và rất ấm; mùa Đông đang đứng run cầm cập ở bến mà leo lên được xe bus thì sướng phải biết. Đối diện là hai vợ chồng già đang ngồi. Chiếc xe ôm cua, bà già hơi bị ngả người sang một bên, bàn tay bà vội níu lấy tay chồng để giữ thăng bằng. Ông chồng mỉm cười rất tình cảm rồi lấy một tay vỗ vỗ lên tay bà lão, như kiểu trấn an rằng có tôi đây. Cái nụ cười của ông lão và cách vỗ về nhẹ nhàng ấy rất tình.

Ở cái xứ lạnh này, không biết bao nhiêu lần tôi thấy những cặp vợ chồng rất già vẫn còn nắm tay nhau đi dạo dưới những tán cây, trong khu rừng hay trên những con phố ồn ào náo nhiệt. Họ hạnh phúc, chậm rãi sống và yêu nhau như thể những gì hỗn loạn và bất ổn trong xã hội Nga hậu cải tổ không hề liên quan đến họ. Tôi nghĩ đối với họ, Tintin hay Med có là tổng thống hay không cũng chả quan trọng. Thế giới của họ chỉ có người bên cạnh mới là thứ quan trọng nhất.

Nhưng nước Nga cũng là nước mà theo báo cáo thì số vụ bạo hành gia đình đứng đầu Châu Âu. Đó là sự thật. Bất cứ ai ở chung tòa nhà với Tây cũng thấy vài lần những tiếng tru tréo và đập phá vang lên từ một trong những căn hộ xung quanh. Cách mà cảnh sát Nga xử lý mấy vụ này cũng giống Việt Nam: để vợ chồng nó tự xử, nếu có án mạng thì làm mạnh, còn vài cái bạt tai thì kệ thôi, chen vào làm gì. Nên họ vẫn đánh nhau!

Đôi lần thậm chí ngay giữa đường vẫn có cảnh họ bạt tai nhau, xô đẩy nhau cả nam lẫn nữ. Và cũng không phải nạn nhân nào cũng là đàn bà. Tôi biết có một ông phiên dịch người Việt Nam từng bị con vợ Nga đuổi ra đường, vì lão nghèo, để dẫn một thằng Nga khác về nhà ngay đêm ấy. Cho dù giữa họ đã có một đứa con. Đàn ông nghèo ở đâu cũng ít được tôn trọng. Qua rồi cái thời xã hội coi trọng kẻ sĩ bần hàn. Bây giờ anh giàu anh nói gì cũng đúng, anh nghèo thì cúi cái đầu xuống mà làm việc đi.

Nước Nga đã từng chìm trong vodka và những lời than vãn. Có cả một giai đoạn mà rất nhiều người Nga chỉ muốn nốc vodka rồi khóc cho số phận mình và những người đồng chí cho đến khi thiếp vào giấc ngủ. Rồi tỉnh, rồi uống. Đã có những sắc lệnh nghiêm khắc ban ra để cấm rượu, nhưng đã muộn khi mà những kẻ nghiện đã qua nhiều. Có thời khi lệnh cấm quá căng và giá rượu chợ đen quá cao, người ta từng thấy người nghiện mua cồn hoặc nước hoa rẻ tiền về pha loãng để uống. Những ngày tháng nước Nga lúc nào cũng chuếnh choáng say, kể cả vị tổng thống của họ cũng từng nhiều lần say trong các buổi họp.

Hậu quả của những ngày ấy thể hiện khá rõ trên những đứa trẻ được sinh ra từ những bà mẹ say mèm. Nhiều đứa bị dị tật, bị kém phát triển đã được sinh ra. Trên đường nếu để ý, những đứa trẻ ấy không hề hiếm gặp. Có điều xã hội và người Nga cũng rất ít khi tỏ ra dè bỉu những đứa trẻ đáng thương ấy. Người Nga, nhất là người già, ở góc độ nhân văn khá gần với các công dân ở một xã hội phương Tây phát triển điển hình.

Còn giới trẻ, cũng không hẳn họ không tốt, rất nhiều thanh niên như mấy thằng bạn đại học của tôi vẫn còn nét Ivan xưa, nhưng cũng khá nhiều trong số họ sống có chút gì ích kỷ hơn, cá nhân hơn. Họ ít nhường ghế cho người già trên metro hay xe bus, họ thực dụng hơn khi mà khá nhiều cô gái Nga cặp với các anh da đen lắm tiền (không có ý phân biệt nhưng tôi biết trong số các cặp đôi ấy những cặp đến với nhau vì yêu đương không nhiều). Đó âu cũng là hệ quả của một giai đoạn khủng hoảng niềm tin ở cái đất này, người ta đã ít tin hơn vào sự tử tế. Như giới trẻ Việt Nam hiện nay cũng vậy!

Giữa những nét buồn của cái nơi nửa năm trời phủ tuyết này thì hình ảnh những đôi vợ chồng già tay trong tay trở thành một trong những điều khiến người ta cảm thấy cái xứ sở này ít nhiều gì cũng từng rất đẹp và tử tế.


Những đứa trẻ thế hệ chuối
Gọi tụi nó là “chuối” là mượn lời bác Ngạn khi nói về thế hệ thứ hai ở Mỹ với ý nghĩa là ngoài vàng trong trắng. Vẻ bề ngoài tụi nhỏ vẫn là da vàng, vẫn là cái giống VN con Lạc cháu Hồng nhưng bên trong tâm hồn chúng nó đã là lũ Tây mũi lõ rồi!

Người Việt Nam di cư, như mọi nơi trên khắp cái thế giới này, như mọi con người từ Châu Á nói chung mà điển hình là các bạn Tàu thân thiết. Như nhau cả, đều là những con kiến chăm chỉ làm việc, từ sáng đến tối, tay chân luôn bận rộn để kiếm về những đồng tiền từ ít đến nhiều. Những người Châu Á di cư luôn mang trong lòng chút gì đó nuối tiếc về quê hương và khao khát đổi đời. Có thể tại quê hương họ cũng đã là người giàu, không lo ăn mặc, cũng có thể họ rất nghèo đến nỗi vài trăm $ cũng là niềm mơ ước trăn trở trong mỗi giấc mơ.

Tựu chung, họ nhìn thấy nơi đất khách những niềm hy vọng lớn. Có thể cho bản thân, có thể vì điều kiện học hành cho con cái, cũng có thể chỉ vì họ có một nỗi buồn nào đó ở nơi quê cha đất tổ thôi thúc họ rời xa, càng xa càng tốt. Đi sâu vào nữa thì lại trở thành những câu chuyện rất riêng mà không thể nói ra cho rõ ràng đầy đủ. Tôi chỉ muốn nói về những con người VN nơi cái xứ lạnh này.

Thông thường, các bậc làm cha làm mẹ sang đây đều rất bận rộn làm việc, buôn bán. Những đứa trẻ sinh ra ở VN hay ở nơi đây nếu ở chung với bố mẹ sẽ không thường gặp mặt bố mẹ trong ngày. Từ nhỏ, chúng thường được ở với bảo mẫu là những bà già Nga hay những phụ nữ Nga trung niên đã xin nghỉ việc để làm bảo mẫu chuyên nghiệp cho cộng đồng người VN. Giá tiền thì tùy gia đình, tùy thành phố, ở thành phố nhỏ có thể là 100–200$/tháng, ở Moscow có thể nhiều hơn tùy thỏa thuận.

Cũng có gia đình đưa em vợ, em chồng sang làm bảo mẫu kiêm người giúp việc cũng có căn hộ thì thỏa thuận 1 người ở nhà trông con chung rồi các nhà khác góp tiền. Nhiều hoàn cảnh, tựu chung, xác suất một đứa trẻ thường xuyên ở bên cạnh chơi với bố mẹ là không cao. Đôi khi áp lực kinh doanh cũng khiến các ông bố bà mẹ gắt gỏng với con mỗi khi chiều tối về đến nhà. Lâu dần, cái mối dây tình cảm liên kết bố mẹ – con cái cũng mỏng dần đi.

Phần lớn những đứa trẻ này đều hiểu tiếng Việt, 80% nói ok, cũng bởi dù sao chúng vẫn sinh hoạt trong cộng đồng, phần còn lại nói cực kém, như kiểu “LUỘC GẠO” hay “CON CÁ NÓ ĐI, NGU LÀ GÌ HẢ BỐ?”… Tuy nhiên phần đông chúng khi trò chuyện với nhau đều bằng tiếng Nga, thứ tiếng chúng quen thuộc và có nhiều kinh nghiệm. Hầu hết những đứa sinh ra bên này hoặc học từ nhỏ đều nói tiếng Nga với phát âm cực chuẩn. Ngữ pháp thì chưa chắc (khả năng viết) vì cái này cần rèn luyện, mà bố mẹ chúng thì chẳng giúp được gì.

Các bậc sinh thành chúng chỉ có một vốn tiếng Nga cực kỳ tệ hại, chỉ dùng trong phạm vi chợ mà thôi. Cho nên có lần một thành phố xa tôi chứng kiến lúc tranh cãi thằng con nó chửi ông già nó là “Đồ con lừa”, ông bố hét lên: “Nói tiếng Việt cho tao hiểu!”. Đôi khi, cách mà người lớn VN đối xử với nhau khiến một vài đứa trẻ trở nên khiếp sợ và ghét bỏ người VN. Có đứa tôi gặp, 16 tuổi chưa bao giờ muốn nói chuyện với người VN. Nó ghét người VN, một phần do cách nó nhận xét về người VN, một phần khi nó đi học, lũ bạn chửi nó là “bọn VN, chúng mày láu cá, lừa bọn tao, lừa bố mẹ tao…” nên nó bị cô lập ở trường, và nó quay lại ghét những người làm nó bị cô lập.

Những đứa trẻ VN nơi đây tuy khôn ranh hơn lũ Nga đồng lứa (hình như khôn vặt là một nét khó có thể chối bỏ của dân tộc mình) nhưng nếu so sánh sự ranh mãnh với lũ trẻ ở VN thì vẫn chưa ăn thua. Lũ trẻ ở đây về cơ bản là dần dần sống ý thức hơn, sạch sẽ hơn, và thật thà hơn. Chỉ những đứa trẻ nào sống trong một cộng đồng VN quá lớn (như khu tập thể SQ) thì nhiều đứa cũng sẽ ranh mãnh, tham lam và quậy phá kiểu vô ý thức như những đứa trẻ ở VN (ví dụ lấy đồng xu cào xước xe người ta, bấm chuông cửa căn hộ rồi chạy…) mà mỗi khi xảy ra, người Nga đều kết luận là do lũ VN vì lũ Nga cực kỳ hiếm đứa làm thế.

Nhưng nói công bằng, lũ trẻ VN có vài đứa trở nên nổi bật trong trường, cũng có vài trường hợp lên báo VN rồi. Phần đông chúng khá môn Toán, kém môn văn học Nga. Khá Toán cũng là kết quả thường thấy trong XHVN, nhà nào cũng ép con học Toán, hiếm nhà nào thuê gia sư môn văn học Nga. Hầu hết vì thế, dù vài đứa trẻ VN có quốc tịch Nga cũng không thi vào ĐH Nga theo đường công lập mà phải học dạng tự túc.

Nói sơ về thi ĐH bên này, nếu thi khoa tự nhiên thì 2 môn bắt buộc là Toán và Văn học Nga, tùy trường mà vấn đáp hay viết. Thí sinh nộp đơn, các trường sẽ thông báo ngày thi, đến hôm ấy thí sinh đến thi, môn đầu tiên có thể là Toán hoặc Văn học Nga. Ví dụ hôm đầu thi Văn học Nga và tiếng Nga, thi vấn đáp, anh vào phòng thi có hội đồng hỏi vài câu, nếu ok thì hôm sau thi Toán, nếu bị đánh rớt thì thôi, học kiểu tự túc đi, khỏi thi mấy môn khác. Thi xong 2 môn ấy ok thì hôm sau thi môn chuyên ngành như Toán (nếu anh thi các ngành liên quan đến Toán, Lý, Hóa, Tin…).

Học sinh đạt Olympic thường được tuyển thẳng. Khi vào học thì SV thi đậu qua kỳ thi thì học phí coi như miễn, có học bổng, KTX coi như miễn (đóng cho có). Nhưng nếu có học kỳ nào thi không qua thì bị chuyển sang dạng tự túc đóng tiền. Chênh lệch giữa hai kiểu học này khá lớn, nhiều đứa bị rớt là bỏ học luôn vì nhà nghèo không đủ tiền đóng học phí ĐH.

Cách đây chục năm học phí còn rẻ, giờ thì có trường cũng cả chục nghìn $ 1 năm rồi, phần đông khoảng 3–4k$ 1 năm, rẻ nhất thường mấy ngành Toán Lý, đắt nhất thường kinh tế, luật… giống VN. Con gái lớn lên ở cái xứ này thường da trắng, xinh hay không tùy nhưng chúng khá là biết trang điểm.

Cũng đúng vì phần đông gia đình bên này nói giàu thì chưa, chứ dư ăn thì quá bình thường. Chuyện cho con tiền mua sắm như một sự chuộc lỗi trong tiềm thức của những bậc làm cha làm mẹ. Đôi khi trong tiềm thức họ hiểu mình quá ham công việc mà bỏ bê con cái, nhưng giã ra khỏi guồng quay hàng hóa thì lại không dễ vì mọi tài sản của họ đang neo ở hàng, bỏ là mất hoặc thu lại chẳng bao nhiêu nên không bỏ được.

Đôi khi kể cả họ muốn biết con cái họ học hành thế nào cũng chịu vì không đọc được sách vở của con, thứ tiếng Nga không tồn tại ở chợ. Có những lúc đứa con học kém, ham chơi, thầy cô gọi bố mẹ lên để cảnh báo thì các vị ấy cũng cứ cười hê hề, rồi đa đa nhẹt nhẹt loạn cả lên. Về nhà thằng con bảo cô khen con có khi cũng tin. Do đó, có những gia đình thuê gia sư cho con chỉ là để gia sư dịch lại những nhận xét của cô giáo về con mình cho họ nghe hoặc đôi khi thay họ đi họp phụ huynh.

Có bà mẹ cũng đã từng thốt lên: “Chị ở đây như người câm điếc ấy em ạ, chán lắm.” Đôi khi thằng con lại hỏi: “Câm là gì hả mẹ??”

Phần đông các đứa trẻ sinh ra trong gia đình giàu có đều có tương lai được sắp xếp sẵn ở Châu Âu hay ở Mỹ. Chúng sẽ sớm sang đó học tập và bố mẹ chúng cũng sẽ sớm tất toán vụ làm ăn bên này để sang đó sống nếu có thể. Kha khá người làm ăn bên này dù là từ phía Bắc, có gia đình ở Mỹ hay Châu Âu, đặc biệt là khối Đông Âu xưa.

Ngày lễ tết, chúng cũng tham gia, nhưng thực sự vui và cảm nhận thì không nhiều. Đối với chúng, Tết Tây vui hơn nhiều. Tuy nhiên, nói gì thì nói, trước mặt người lớn tuổi, lũ trẻ VN có chút tình cảm hơn, nghe lời hơn so với lũ trẻ Nga (dù thực ra lũ trẻ Nga sống thực với cảm xúc hơn). Nên cũng có trường hợp bà bảo mẫu già người Nga sau khi chăm một đứa trẻ nào đó thì thương nó như cháu ruột vậy, đến khi bà sắp chết bà di chúc lại căn hộ bé bé của bà cho đứa nhỏ. Đến khi bà mất, con cháu bà ở đâu đâu mò về, sau khi nghe vụ căn nhà đã di chúc thì chúng nó bỏ đi, chẳng màng chuyện tang lễ. Cuối cùng tang lễ của bà lại do những con người da vàng bé nhỏ hàng xóm của bà tổ chức, mà họ tổ chức rất trang trọng.

Người VN ta, nghĩa tử là nghĩa tận. Nói về trường hợp này một chút: Nước Nga có một giai đoạn hay một thế hệ mà tôi dùng từ là khốn khổ và lạc lối, những thanh niên ở thế hệ ấy khi đến tuổi trưởng thành thì vật vã loay hoay tìm lối ra cho cuộc sống và công việc. Cha mẹ họ, những con người cộng sản thuần, không hề biết làm sao để giúp đỡ con cái. Cái khốn khó nó đẩy bùng lên những mâu thuẫn giữa hai thế hệ, giữa những ý thức hệ khác nhau và khoét sâu vào nỗi uất ức vì thiếu sự đỡ đần của bố mẹ đối với những thanh niên này (đôi khi khi khó khăn, người ta dằn vặt bố mẹ mình là: “Sao thằng A, con B nó ra trường bố nó lo cho hết mà con thì chẳng nhờ được gì từ bố mẹ.”).

Tất cả những điều đó nó phá tan rất nhiều giá trị gia đình truyền thống. Nó đẩy con cháu xa khỏi bố mẹ ông bà. Nhiều người thất chí bỏ đi làm ăn xa, cố tình nhiều năm không liên lạc với bố mẹ mình. Đôi khi báo lại đăng có ông cụ này chết mấy tháng trong nhà mà không ai biết, có bà cụ té cầu thang nằm ngất nửa ngày không ai hay… đau lòng lắm!

Lũ trẻ VN sống ở xứ này có vài đứa cũng như thế, nhưng phần đông đều ít nhiều yêu thương, sợ hãi bố mẹ mình. Tôi nói sợ hãi vì sợ hãi ít nhiều gì cũng là một trong những nét chung của hầu hết mọi đứa trẻ VN đối với bố mẹ, cho dù sống ở bất cứ đâu. Phần đông chúng gặp khó khăn trong việc diễn tả mọi thứ bằng tiếng Việt, với chúng tiếng Nga thoải mái hơn. Vài đứa có suy nghĩ xa và rộng nhưng phần đông vẫn không thể hiểu mình đang học vì cái gì, vì sao phải học Toán, vì sao lại học trường Kinh Tế… việc học tập của chúng vẫn bị quyết định bởi bố mẹ, những người chẳng hiểu nổi cô giáo chúng nói gì.

Tôi cũng thấy thêm một nét nữa rất khác giữa người VN và dân Tàu hay Thổ là bố mẹ VN thường trong thâm tâm không muốn con mình buôn bán hay tiếp nối chuyện buôn bán của mình. Dường như trong tiềm thức họ chỉ muốn kiếm đủ là về. Điều này trái ngược với lũ Thổ và phần ít lũ Tàu, những người luôn muốn con mình học để đỡ đần mình, tiếp nối việc làm ăn của mình. Do đó, cộng đồng dân Thổ (nói Thổ là nói chung mấy dân tộc kiểu Thổ hay Azec hay mấy nước mà tóc đen và mặt thì có nét Caucasian) càng ngày càng lớn mạnh và nắm giữ dần sức mạnh kinh tế của mình. Còn cộng đồng VN thì ngày càng yếu đi trông thấy.


Cờ bạc xứ này

Viết về cờ bạc là bởi khi còn SV, đã từng tự hứa bản thân ngày tốt nghiệp gần về nước sẽ vào thử con casino xem nó thế nào, ai dè còn 1 năm nữa xong thì Tintin cấm casino, dẹp hết. Chán vãi.

Tôi biết đến casino qua phim Hongkong, tất nhiên chả phải mình tôi. Cứ nghĩ casino là nơi có những thần bài, Long Tứ đủ kiểu nên khi sang đây thấy có casino nói thực là háo hức lắm. Nhưng học bổng ăn còn đíu đủ, ca ca cái gì. Những năm ấy chỉ nghe nói có nhóm SV con em trong ngành của Dầu Khí đi học ở ĐH Dầu khí Moscow là rủng rỉnh tiền thôi, từng có tin đồn có chú 1 đêm đốt 10k$ vào sòng, để dễ so sánh, học bổng sinh viên khi ấy khoảng 3k$ 1 năm. Đám sinh viên ấy có đứa năm 3 bị đuổi học, 2-3 năm sau thấy sang lại Nga công tác dưới danh nghĩa cán bộ rồi. Tóm lại, chưa bao giờ có dịp vào nên không kể về nó mà sẽ kể về các loại cờ bạc quen thuộc gây ảnh hưởng lớn đến cộng đồng.

Đầu tiên và ảnh hưởng sâu rộng nhất là mấy cái máy đánh bạc tự động. Cái đầu tiên tôi thấy là ở sân một nhà ga đi thành phố xa. Đó là những năm đầu 2000, những nhà ga còn khá hỗn loạn (nhưng an ninh hơn nếu so với VN), cạnh ga hay có những chợ bé bé, có chợ có người VN, có chợ tuyến Tàu và Thổ. Đồ bán thì đa dạng, từ cái túi xách, túi đeo, đồ lưu niệm (đồ làm bằng nhựa như mấy cái lọ nhựa trong suốt trong đó có 2 dung dịch không hòa lẫn vào nhau giả làm trời và biển, có hình nhân bằng nhựa nổi đúng giữa mặt phân cách 2 chất lỏng ấy theo định luật của cha gì ở trường chạy lung tung ấy) cho đến đồ đắt tiền như thảm sàn hay áo quần fake (móa hồi ấy với SV quần áo là đồ cmn đắt tiền quá đi ấy chứ). Quay về cái máy đánh bạc ấy, giống hệt mấy cái máy hay thấy trong phim Hongkong hay Mỹ. Cho xu, gạt phát màn hình giả lập quay o o nếu trùng hình thì ăn theo tỷ lệ nào đấy mình cũng không biết. Ngày ấy 1 lần quay tầm 5r. Chợ Vòm cũng có cửa hàng đặt cái máy này. Mình để ý có những bà bán được cốc nước (bán nước dạo) có tiền là vào đút, ấn, gạt, không trúng lại ra bán tiếp. Có ông cũng cứ ngồi 1 tiếng lại chạy đi lấy tiền về quay. Tuy nói thật ra, thiệt hại mỗi ngày chơi cái này nó không đến mức quá nhiều (vài nghìn, chục nghìn Rub là nhiều lắm rồi) nhưng cái chính là nghiện rồi thì không chú tâm làm ăn, chỉ muốn chạy ra ôm cái máy. Thiệt hại nhiều nhất là từ chỗ này. Dân VN cũng có người làm chủ mấy cái máy này, nhưng lâu dần cũng mất dần vào tay bọn Thổ. Bọn ấy chơi lớn, làm lớn và đoàn kết, nó có thể tập hợp anh em chi ra đống tiền quyết dành cho được quyền kinh doanh, sau đó nó độc quyền nó sẽ thu lại. Dân VN mình, chung khổ thì được, chung sướng đek được. Cứ hợp tác làm ăn, ban đầu thì ok, khi có lãi bắt đầu quay ra cãi nhau, nên nó chả ra nổi một cộng đồng mạnh. Ông nào cũng sợ mình thiệt.

Đến một ngày, lệnh cấm được ban ra, những chiếc máy biến mất như chưa hề tồn tại, chỉ những con nghiện là vẫn chép miệng nhớ thương cái âm thanh máy phát ra khi màn hình hiển thị vòng xoay đang chạy. Thực lòng mà nói tôi cũng có 1 lần thử trong khi chờ tàu đến ga để giết thời gian, chơi được 10 lần mất 50r thì chả được mẹ gì nên thôi, nghỉ đi uống cafe cho khỏe. Chiếc máy ấy hình như dạo này có đôi chỗ thấy xuất hiện lại, không rõ là hợp pháp hay không.

Tiếp đến là cá độ bóng đá, cái này mới khủng. Nga trước đây cho phép cá cược, như kiểu cá ngựa ở Hongkong, có đánh đủ thứ, thắng thua, tỷ số, đánh liên, đánh tổ hợp, đánh thẻ, đánh linh tinh… mà cái trò bóng đá, đíu hiểu sao dân mình lao vào như thiêu thân. Tôi đồ rằng dân mình mê cờ bạc chứ cũng chả hẳn là bóng đá, chẳng qua bóng đá nhiều cái hay để phán nên chơi ác. Tuy có thể cá độ chính quy nhưng có hạn lượng cho 1 lần đánh, mà thế thì dân mình đíu khoái. Dân mình là cứ phải tất tay mới phê. Thế là nổi lên thầu bóng bánh. Cái này thì gây ra lắm vụ kinh lắm. Chuyện đặt cược cũng giống như nhà mình, qua điện thoại hoặc trực tiếp. Có những mùa bóng mà hôm trước còn làm chủ sạp, sáng sau đã mất trắng. Như kiểu ba cái trận Pháp Senegal ấy, cửa Pháp ăn chắc dù tỷ lệ thấp nên các bố chơi xuống 100k$, thua mẹ nó sặc tiết. Mất trắng! Hay đơn cử VN-Mã vừa rồi nếu chơi thì các đồng chí biết nó thế nào. Nhiều người ăn, nhưng phần đông dính vào cái này là chỉ có chết. Những năm tháng ấy bao nhiêu trường hợp đã ra đường nằm. Hối hận đã muộn. Chợ Vòm khi ấy nó như một xã hội thu nhỏ được bảo kê bởi nhiều phía. Lực lượng cá độ và đòi nợ cũng nhờ mấy mùa bóng mà ăn nên làm ra. Một lực lượng nữa là thu tiền người cá độ, cái này có nhiều người làm, cả sinh viên, nhưng tính nguy hiểm quá cao khi mà ôm cả đống tiền mặt chạy lung tung trên đường, thậm chí có đứa thu độ nó chung nhưng nó tổ chức cướp lại trên đường vận chuyển là chuyện không hiếm gặp. Tuy nhiên đời có vay có trả, phần lớn những người làm cá độ cũng đều có kết quả không hay lắm. Chỉ vài người trở nên giàu có, nhưng lún sâu thì giàu cũng chả sướng gì. Không có tự do!

Đi nhiều thấy nhiều mới nghiệm ra một điều, phạm là dân nghiện, họ có thể đánh bạc với mọi thứ. VD: đang ngồi ăn lại bảo mày cược xem ông này hôm nay có bán được hàng không? Hay mày cược xem mai bà kia có ra chợ không? Hay ấm nước nhà mày sôi đang réo kìa chứ không phải ấm nhà bà C đâu, cược không?… Lắm lúc “cược gì, chơi không, thế …thì mày mất gì?”…. nó thành câu cửa miệng của một người nào đó. Họ chìm trong cám giác được đánh cược và ủ mưu phục thù, cả ngày của họ chỉ thế. Những người thế này không bao giờ có thể ngẩng đầu lên được. Họ thích và chọn lựa chìm trong cơn nghiện của mình.

Những kẻ ăn mày đáng tôn trọng

Đã bao nhiêu lần muốn nâng máy lên chụp nhưng rồi lại thôi. Đôi khi, cái cảm giác xót xa lấn át tất cả những cảm hứng có hơi hướng nghệ thuật hoặc lưu trữ kí ức. Tôi ước gì mình có thể dễ dàng quên đi những dáng người lặng lẽ ấy.

Nước Nga sau hơn 10 năm tôi sống ít nhiều có những thay đổi mang tính tích cực. Những nhà hàng cửa hiệu mọc lên mỗi ngày, những món ăn ngoại quốc dần dần xâm chiếm thị trường nơi đây, từ những quán bình dân như Mac, KFC, Saurma, Mumu… cho đến những quán ăn hạng trung như Sushi, hay cafeViet. Còn hạng sang thì tôi chưa bao giờ thử, nhưng thấy cũng đã nhiều. Giá cả mỗi bữa ăn tùy quán mà dao động từ 10$ đến cả trăm $. Nước Nga riêng về ẩm thực đã chuyển mình mạnh mẽ từ những stalovaya (nhà ăn cho nhà xưởng hoặc trường học) đến những không gian sang trọng có nhạc sống du dương phục vụ suốt ngày. Nhưng bên cạnh sự phồn vinh ấy là những phần người lạc lõng, u buồn và mất mát. Những người ăn xin.

Những năm đầu 2000, đường phố rất ít người ăn xin, nếu có đó hầu như là những nghệ sĩ không chuyên, họ ngồi đâu đó trong những đoạn chuyển giữa các bến metro, trong hầm qua đường bộ, trên bến tàu, trên các con phố đông người. Họ lịch sự và lặng lẽ chơi thứ âm nhạc không chuyên của mình, từ những bản tình ca đến những trích đoạn giao hưởng nào đó. Họ cứ chơi như thể cho chính mình, người qua đường vẫn bước, đôi khi vài người nghe tiếng nhạc từ xa đã chuẩn bị sẵn vài xu lẻ bỏ vào cái cốc hay chiếc nón ngửa của những nghệ sĩ này. Hình ảnh về họ rất quen thuộc trên bất cứ đường phố phương Tây nào mà chúng ta ít nhiều đã từng thấy. Ăn xin nhưng rất có văn hóa. Thông thường khi rủng rỉnh tôi cũng cho họ vài xu, đôi khi nếu có tâm trạng tốt thì tôi trút tất cả xu trong ví của mình cho họ mà không đếm lại. Những năm tháng ấy, tuyệt chưa có những người ăn xin già hay những đứa trẻ.

Không rõ từ khi nào, có lẽ nhất là sau khi Putin thay đổi chế độ phụ cấp dành cho người già (từ miễn phí gần hết các dịch vụ y tế và công cộng sang trả tiền mặt để các cụ tự lo) lực lượng người già xin ăn trở nên đông đột biến. Họ ăn mặc thường là rất nghèo, nhưng hầu như sạch sẽ. Họ hay đứng cạnh những quầy thuốc lá, quầy thức ăn nhanh, quầy tạp hóa trong tàu điện ngầm. Họ chỉ đứng đó chìa tay ra, họ rất ít nói và thường thì không chủ động xin. Nhưng hầu như mọi người hiểu họ đứng đó làm gì. Lần đầu tôi thấy một bà lão đứng cạnh quầy thuốc lá tôi lập tức hiểu bà muốn gì, số tiền xu thối lại từ bao thuốc tôi đặt vào bàn tay gầy guộc đang run run nhẹ nhẹ. Thực sự không hiểu cái run rẩy ấy là đói hay do tuổi già. Bà nói một câu cảm ơn và lời chúc phúc khi tôi đưa bà ít tiền còn ấy còn tôi thì vội bước đi ngay lập tức, tôi cảm thấy nghẹn lòng. Ở góc độ con người, tôi tin rằng dù gì đi nữa, người già cần được chăm sóc và ít ra họ không nên bị đói!

Nếu quan sát, những người già ấy rất ít khi ngẩng đầu lên, họ tránh nhìn vào mắt người đi đường hoặc người đối diện. Nó cho chúng ta cái cảm giác họ xấu hổ nhưng bất lực. Ở tuổi của họ, đó là lựa chọn gần như là duy nhất. Có đôi khi người già cũng còn một lựa chọn khác, họ bán những gì mình còn giữ hay có được. Vài cọng hành lá thu được từ việc vùi củ hành tây vào cái chậu con con trong phòng, ít nấm họ nhặt trong rừng mùa hè, ít táo con họ hái trên những cây táo mọc đầy trên vài con đường khắp Mos, vài quyển sách nhỏ cũ kĩ, chiếc khăn len tự đan, hũ dưa chuột tự muối, mấy cành chổi mùa đông (loại cây khô quắt mùa đông mà nếu mang ngâm nước ấm sẽ lại nở ra vài chiếc lá hay có khi là bông hoa nho nhỏ)… nhưng hầu hết những thứ ấy đem lại lợi nhuận không cao và bán cũng khó mà chạy khi mà cả về số lượng lẫn chất lượng đều không so với hàng siêu thị được. Người ta mua, đa phần là muốn giúp ông bà chút ít tiền còn và cũng là cách để ông bà nhận sự giúp đỡ mà bớt đi nhiều phần xấu hổ. Nếu đi đâu về qua Metro mà thấy cần mua ít hành ngò hay dưa chuột muối tôi thường ưu tiên mua của những người này. Đôi khi nếu tiền thối không nhiều, tôi cũng không nhận lại, tôi tin ai mua hàng các cụ cũng thế. Họ thường cảm ơn rất chân thành cho những nghĩa cử ấy.

ôi cũng biết có lẽ thời trẻ họ không có một công việc mang tính chuyên môn cao, hoặc chính ra họ cũng không từng là những người có trình độ vì thông thường lương hưu của những người này khá ổn. Nhưng nhìn lại VN cũng vậy, xã hội mà, số người sống bằng lương hưu đủ đầy được bao nhiêu? Nhưng có một điều tôi nhận thấy là người VN mình giỏi xoay sở hơn con người xứ này. Hầu như các cụ ở thành phố đều có cách xoay sở nào đấy nếu thiếu lương hưu. Ở quê thì không nói làm gì vì ít cơ hội để xoay sở ra tiền (ra tiền chứ không phải ra cái ăn).

Những người già xứ này còn hay bị một loại bệnh dường như là do cái lạnh và hậu quả của việc ăn bơ sữa quá nhiều: bệnh giãn tĩnh mạch chân. Những đôi chân sưng phù run rẩy khó nhọc bước từng bước. Những đôi chân to tới mức rất đau đớn khi cố nhét vào đôi giày rẻ tiền họ đang mang. Mà xứ này không có giày thì có mà chết, kể cả mùa hè cũng chả được mấy ngày mặt đất đủ ấm để chạy chân trần. Cái lạnh ngàn năm nó thấm cả vào lòng đất! Bạn tôi học Y từng kể về những bệnh nhân này và cách các bác sĩ cắt và kéo những đoạn tĩnh mạch chân bị chết ra khỏi da người bệnh khiến tôi ăn mất ngon mấy hôm liền. Nên chớ lạ nếu ai đó thấy trong những thước phim thời sự về nước Nga có những cụ già bước đi rất chậm.

Mấy năm trở lại đây, lực lượng ăn xin ở Mos đón thêm một nhóm người mới. Những người phụ nữ Đầu Đen (từ Đầu Đen là từ chỉ chung các dân tộc Caucasian có nét như dân lai Âu Á (hoặc Trung Á) nhưng tóc đen xoăn). Những người phụ nữ ăn mặc rất đặc trưng, đôi khi dẫn theo con nhỏ và sai đứa nhỏ bám lấy đối tượng tiềm năng để vòi tiền – giống ở đâu nhỉ? Những kẻ này thường bị dân Nga khinh bỉ và có khi gọi cảnh sát kiểm tra. Nhưng không hiểu sao số lượng đối tượng này ngày một nhiều. Tôi chưa bao giờ cho tiền họ cả. Quan điểm của tôi là cho tiền chỉ giúp đẩy những đứa trẻ ấy sâu thêm vào cái số phận thảm thương hiện giờ.

Cuối cùng và cũng mới ngày một xuất hiện nhiều là những người tàn tật hoặc những người (có lẽ) có hoàn cảnh đặc biệt. Họ thường đứng im ở đoạn chuyển Metro hoặc đi dọc vào bên trong các toa tàu khi đang chạy và lớn tiếng nêu lên tình trạng bản thân (như kiểu trở về từ chiến trận Afghanistan, bị tai nạn lao động hay con trai tôi cần tiền phẫu thuật) vừa nói, vừa đi hay lăn xe lăn dọc các toa tàu điện ngầm. Ai cho bao nhiêu thì nhận, không vòi vĩnh. Đôi khi họ chỉ giơ ra trước ngực một tấm bảng nhỏ viết tình trạng của mình và lầm lũi đi dọc toa tàu hay đứng một chỗ nơi chuyển bến. Tôi đôi khi nếu cảm thấy tin tưởng cũng cho những người này một ít.

Ở cái xứ này, cuộc sống thay đổi quá nhanh trong những năm vừa qua, cả về kinh tế lẫn ý thức hệ. Nó cho nhiều người cơ hội, nó đẩy không ít kẻ ra đường. Đôi khi dường như điều này giống cách mà thiên nhiên đào thải và chọn lựa. Ở bất cứ nơi đâu tôi tin điều này cũng đều tồn tại, nó chỉ khác nhau chút ít ở phương thức và tốc độ đào thải mà thôi. Nếu chúng ta may mắn không phải là kẻ bị đào thải, vậy đôi khi cũng nên san sẻ chút may mắn của mình theo những cách khác nhau, nó giúp mọi thứ trở nên tử tế hơn, còn ít hay nhiều tự mình định giá lấy!

Chuyện Magnitogorsk

Ghi chép mang tên “Chuyện Magnitogorsk” của tác giả Teq316 (https://teq316.wordpress.com/)

Tôi có một thằng bạn mới, tính tình rất tốt bụng và chân thành, tên là Ruslan. Mà thôi kể sau, nói về cái thành phố Magnitogorks xấu xí này đã.

***

À kể luôn hehe,

Thằng Ruslan người Azerbaijan, sinh ngày 24/1/1983, làm taxi sân bay Domodedovo, biển số xe là MB606-77, nhà ở số 74 khu Borodino – Moscow, hai con trai một con gái và cô vợ đang mang bầu. Tôi biết thông tin cá nhân của nó rõ như thế, vì tôi đã chụp cái bằng lái xe và ghi nhớ số nhà của nó, khi quyết định 3h đêm đến nhà nó tá túc.

– Tao chả sao – tôi bảo – nhưng hai thằng bạn tao thì ngại. Vì bọn tao không biết mày là ai.

– Mày là đàn ông – Ruslan nói bằng cái cách để tiếng Nga chợ Vòm như tôi cũng có thể hiểu – hai thằng kia cũng là đàn ông. Chúng mày là ba thằng đàn ông. Tao là một thằng đàn ông. Chúng mày lo gì. Và tao chẳng có lý do gì để đánh hay giết chúng mày.

– OK. Nhưng mà tao phải chụp ảnh hộ chiếu hay bằng lái của mày, gửi đi đã. Để có làm sao người ta còn biết mà tìm.

– OK.

Thế là tôi thuyết phục hai thằng đồng nghiệp đi cùng, và theo Ruslan về nhà nó. Đây quả là một việc khá phiêu lưu, đây là Moscow, và có lẽ trên khắp đất Nga ít có ai quyết định như vậy. 

Số là chúng tôi có 2 ngày ở Moscow, trước khi bay tới Magnitogorsk, để tiết kiệm dành tiền đi chơi, tôi đặt trên Agoda một cái phòng nghỉ cho dân du lịch ba lô, ở phố Arbat trung tâm Moscow. Nhưng cám ơn VietnamAirlines, chúng tôi bị delay 5 tiếng. Rồi cám ơn Hải quan Nga lợn, một thằng đồng nghiệp của tôi bị giữ ở sân bay thêm 1,5 tiếng. Thế là bắt taxi về đến Moscow đã 3h sáng. Tới địa chỉ đặt chỗ, tôi và thằng taxi Ruslan không tài nào gọi được cửa, điện thoại cũng đã tắt máy. Chúng tôi bị lỡ dở ở ngoài đường lúc giữa đêm. Ruslan bảo, thôi về nhà tao, chứ giờ này chỉ có khách sạn lớn mới mở cửa, mà vào đó sẽ rất đắt, về nhà tao ở tao chỉ lấy mày 3000 rub (50USD) trong 2 đêm, rồi tao sẽ lại chở mày ra sân bay.

Thế là tôi thuyết phục hai bạn đồng hành, rồi chúng tôi theo Ruslan về nhà. Chỉ thực sự yên tâm khi bước vào cửa, thấy trong nhà vương vãi đồ chơi trẻ con, Ruslan là một người cha.  Đồ ăn trong nhà chỉ còn một cái bánh mỳ, rượu chỉ còn một ly cognac, Ruslan chiêu đãi chúng tôi hai thứ đó, rồi chúng tôi đi ngủ, Ruslan ngồi xem TV chờ đến giờ lại ra sân bay đón vợ con đi chơi đâu đêm nay sẽ bay về.

Chúng tôi ngủ vài tiếng, nghe tiếng động bèn trở dậy, vợ con Ruslan đã về. Tôi chào, vợ thằng Ruslan chỉ gật đầu gườm gườm. Chắc hẳn cô nàng đang rất bực mình vì đi về, nhà cửa thì bừa bộn, chồng lại vác đâu về ba thằng ất ơ. Nhưng tôi đã gọi được cho hostel, họ hướng dẫn cách đến và gọi cửa. Tôi bảo Ruslan, rồi chúng tôi xách hành lý xuống xe, về hostel. Tới nơi, Ruslan không lấy đồng nào, tôi bắt nó phải lấy một ít, thế là nó lấy 1000 rub, nói là chỉ lấy tiền đổ xăng.

Ruslan làm tôi nhớ đến thằng đầu trọc dữ dằn đã cho tôi đi nhờ xe miễn phí, khi tôi lạc ra ngoài Moscow trong đêm đông đồng không mông quạnh 12 năm về trước. Số tôi cứ hay gặp những chuyện phiêu lưu nho nhỏ và những cái duyên nho nhỏ như vậy. Ruslan nói, nếu có bất cứ vấn đề gì khó khăn, hãy gọi điện cho tao.

Cảm ơn, chúc thằng bạn cùng bà vợ bầu và ba đứa con của mày sức khỏe.

***

Margnitogorsk đón chúng tôi bằng nụ cười hiền lành của một ông già, tên là Alecxandre. Ông già nói, xe đậu khá xa, mấy đứa mặc áo khoác vào, không lạnh chết mẹ chúng mày. Lạnh thật, phải tới –10.

Sân bay nhỏ xíu như một cái ga xép, đường vào thành phố vắng hoe, hai bên đường là cây bụi và những rặng bạch dương trụi lá. Xe vào dần trong phố, đường sá rộng rãi nhưng cũ kỹ lổn nhổn, những ngôi nhà của thập kỷ 60 – 70, tuyết đã tan gần hết chỉ còn những đống băng bẩn bẩn mà người ta vun lại. Khách sạn nhỏ và xấu như một cái nhà khách tỉnh lẻ quê mình. Con người bình dị hiền hậu. Đàn bà con gái rất đẹp, hơn Moscow nhiều, có lẽ chỉ kém Saint Petersburg một chút. Đàn ông ngố ngố và chân thành.

Tối qua tôi xuống bar khách sạn làm ly bia. Vắng teo, chỉ có tôi và một bàn nữa. Bàn kia có một đôi đang ngồi. Thằng đàn ông thấy có bạn nhậu, bèn bỏ bạn gái, ra quầy bar ngồi với tôi. Uống rượu kiểu Liên Xô, vodka whisky hay cognac gì cũng thế, cứ một ly đầy ặc dốc 100%. Thằng Igor này trông dừ dừ, chắc trạc tuổi tôi, làm thương mại gì đó đi lại khắp vùng Chelyabinsk này. Uống với nhau được bốn lượt, tôi đã trở thành thằng bạn vô cùng quý của nó, như nó tuyên bố. Gọi là tình bạn giữa những thằng mê rượu, tình một tối quán bar, với đàn bà thì là tình một đêm, với đàn ông thì là tình một tiếng uống rượu. Tình thật là thân thương, ngày mai quên tên nhau.  Con bạn nó thì ngồi một góc, gườm gườm khinh bỉ nhìn bọn đàn ông bê tha bệ rạc, được ba xu rượu là hoắng hết cả lên với nhau.

***

Magnitogorsk, tiếng Nga có nghĩa là, thôi kệ mẹ nó, lúc khác nói về Magnitogorsk.

Tôi lại có một thằng bạn mới khác, là thằng Ilya.

Thằng Ilya làm bồi bàn ở quán bar khách sạn này. Tối qua khi tôi và thằng Igor say rượu uống với nhau, thằng Ilya rót rượu. Nó là thằng bồi bàn, trẻ măng, nhưng tôi thấy quý nó. Và nó cũng thế, quý tôi. Tôi vừa ở dưới bar làm đôi cốc bia Baltika số 7, và nói chuyện với Ilya.

Ilya 23 tuổi, sau khi xem phim Fast & Furious thì có một ước mơ là được sang Mexico sống. Tôi không xem phim đó nên không hiểu sao nó lại thích Mexico. Tôi hỏi, mày thích Mexico, thế có biết rượu tequila không. Nó nói không biết. Vậy – tôi nói – hãy đến Mễ để mà uống tequila.

Ilya kể rằng nó đã hai đêm không ngủ vì công việc quá nhiều. Tôi hỏi sao làm nhiều thế. Ilya nói nó phải làm để trả nợ, sau ca làm bồi thì nó còn một ca làm bảo vệ, để trả nợ. Nợ bao nhiêu? Nợ 12 nghìn USD. Tại sao nợ? Tôi dính với bọn Mafia, tôi nói một điều không phải với một VIP của bọn chúng, và thế là bị phạt tiền, nếu không trả, chúng sẽ không làm gì quá nhưng sẽ đánh tôi lần này lần khác, tuần này tuần khác.

Tôi hỏi, chỉ là vài lời nói, sao bị phạt nhiều tiền thế. Ilya nói, chuyện của tôi anh không thể tin được, giống như chưa nhìn thấy ma thì không thể tin là có ma. Chuyện rất dài, anh không tin đâu. Mỗi tháng ở thành phố Magnitogorsk này, trung bình người ta chỉ kiếm được hơn 300 USD. “Magnitogorsk là cái đít của nước Nga” – Ilya nói – tôi chẳng biết làm sao mà đủ tiền trả cho bọn Mafia.

– Sao chú không xin bọn nó tha cho – tôi hỏi

– Mafia là một thế giới khác, em không thể xin được.

– Sao chú không làm việc cho bọn chúng, hay là tự mình trở thành một Mafia, khỏi phải trả tiền.

– Em không làm Mafia được.

– Sao chú không nhờ cha mẹ giúp đỡ?

– Cha mẹ! – Ilya nói – Không thể nói với cha mẹ về những chuyện buồn.

Đúng thế, người ta không thể nói với những người thân yêu về những chuyện buồn. Người ta sẽ ôm nỗi buồn nỗi lo của mình, cố gắng để vượt qua, tự đầu độc chính mình và đầu độc những người khác. Đó là cách mà chúng ta biến cuộc sống của chúng ta trở nên tồi tệ, tôi nghĩ thế.

Ở trong bar không cho hút thuốc, tôi và Ilya phải ra ngoài đường để hút. Tôi mặc một cái áo dài tay, Ilya mặc một cái áo cộc tay. Trời –5 độ, chưa hút hết điếu thuốc đã run lên lập cập. Tôi dụi điếu thuốc, mở cửa bước vào trong nhà. Bên tay trái là một bức tượng Lenin nho nhỏ. Tôi vuốt má Lenin, nói “cảm ơn”. Ilya cười khặc khặc, đó cũng là việc em thường làm mỗi khi đi qua lối này.

Thế là chúng tôi thấy rất quý nhau. Bọn đàn ông bê tha thường quý nhau vì những cái vớ vẩn như thế.

Mùa đông có một thứ mùi rất riêng biệt, trong mát, khi hít sâu thì như thể những tinh thể băng giá quyện vào và bốc hơi như một làn sương mỏng để lại vị gai gai sắc sắc. Tôi ném điếu thuốc vào thùng rác, rút điện thoại ra chụp ảnh đống băng lổn nhổn bẩn thỉu còn sót lại của những ngày cuối đông. Hôm nay ấm, 2 độ C, khi mặc đủ áo ấm và đứng ngoài mặt trời, thì có cảm giác mát mẻ như mùa hè, và mùa đông chỉ còn là cái áo khoác ta đang mặc mà thôi.

Tôi lại bấm điện thoại chụp một bức ảnh nữa. Tôi không phải dân chụp ảnh, nhưng gần đây đi đâu xa xa tôi vẫn hay chụp bằng điện thoại, để lưu lại tư liệu nhỡ lúc nào thích thì dán vào bài viết, như thế này. Còn thì, khi đến đâu đó lạ lạ, cái mà tôi thích không phải là chụp ảnh đánh dấu, mà là lọ mọ tìm hiểu lịch sử văn hóa và con người.

Sông Ural

Nước Nga rộng lớn này thực sự là quá rộng và quá dày về mặt địa lý lịch sử văn hóa và con người. Sờ vào chỗ nào cũng biết bao điều thú vị. Mà như một chú Nga rậm râu nào đó đã nói, người ta không thể hiểu nước Nga bằng lý trí mà chỉ có thể hiểu bằng tâm hồn. Ý chú ấy nói có thể hiểu là, chỉ có thể hiểu được nước Nga và người Nga, sau khi đã đổ nửa lọ vodka vào cuống họng.

Sông Ural là biên giới tự nhiên của Châu Âu và Châu Á. Nó bắt nguồn từ dãy núi Ural của Nga, chảy sang đất Kazakhtan rồi đổ vào Biển Caspi.

Sông Ural dài 2.428 km, là sông dài thứ 3 của Châu Âu, trên bảng xếp hạng của Châu Âu thì nó được đi đá Champion League. Nhưng nó cũng là sông của Châu Á, mà trên bảng xếp hạng của Châu Á thì nó là sông dài thứ 18, lóp ngóp lo trụ hạng.

Sông này có tên cổ là Yaik, lưu vực sông Yaik có bọn Cô-dắc sinh sống, những người đàn ông chày bửa tự do láo toét ngang tàng lãng mạn mê uống rượu làm thơ và chém nhau hơn mê gái, gọi là bọn Cô-dắc Yaik. Vào thế kỷ 18, bọn Cô-dắc Yaik khởi nghĩa dưới cờ của thủ lĩnh Pugachev, không chỉ chiếm vùng sông Yaik mà cả khu đông nam Nga. (Cuộc khởi nghĩa này của Cô-dắc vùng sông Yaik và sông Đông về sau đã được anh Puskin nhắc đến trong truyện Người con gái viên đại úy, một truyện ngắn tuyệt hay dù tôi không còn nhớ chữ nào, chỉ nhớ là rất hay). Nữ hoàng Ekaterina thấy bọn này quá láo, bèn cử đại binh đánh dẹp. Dẹp tan bọn Cô dắc Yaik, bà lo rằng bọn chúng sẽ lại khởi nghĩa, bèn nghĩ ra một kế mà đúng là chỉ có gái mới nghĩ ra được, là đổi tên sông Yaik thành Ural. Sông bị đổi tên, thành phố Yaikst bị đổi tên thành Uralks, bọn Cô-dắc Yaik thành ra bọn Cô-dắc Ural. Những ký ức anh hùng của cha ông bọn chúng, bị chuyển đổi thành ký ức gắn trên một cái tên khác, ký ức của những người khác. Như kiểu đang yêu em Thủy tự nhiên em ấy giờ thành ra em Hà, yêu tiếp cũng được  nhưng mà nó không giống xưa nữa. Bọn Cô-dắc Yaik từ đó hết khởi nghĩa.

Thành phố Magrnitogorsk – cái đít của nước Nga – theo định nghĩa của Ilya 23 tuổi làm bồi bàn, nằm ở phần ngọn của sông Ural.

Magnitogorsk – Magnetic Mountain City

Magnitogorsk là một thành phố trẻ, được thành lập từ năm 1929, là một điểm quan trọng trong Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất của Đại thi hào Stalin, kẻ mà với niềm tin sắt đá và sự lãng mạn của mình, đã đóng một ấn triện vĩ đại lên bức tranh lịch sử sáng tươi đầy máu và nước mắt của thế kỷ 20.

Trong bài thơ này của mình, đại thi hào Stalin miêu tả thành phố mới Magnitogorsk là trung tâm luyện thép của nước Liên Xô, tức Nga lợn và các bạn. Chàng mời vài thằng bên Mỹ vài thằng bên Đức sang tư vấn xây dựng nhà máy thép. Bọn tư vấn khuyên xây nhà máy thế này, khu ở của công nhân thế kia, cách nhau ra làm sao đó để thuận tiện và không bị ô nhiễm ảnh hưởng, vân vân và vân vân. Trưởng ban tư vấn chưa kịp hoàn thiện các thứ vân vân trên bản đề xuất của mình, thì Stalin đã cho xây dựng rồi, những người cộng sản đương nhiên sợ gì khói nhà máy. Và nhà máy được xây sát bên bờ châu Á của sông Ural, khu sinh sống của công nhân thì ở sát bên bờ châu Âu, khói nhà máy phủ lên bên này sông. Bây giờ cũng vẫn như thế, người dân Magnitogorsk sống dưới bầu trời đầy khói. Thành phố được xếp hạng ô nhiễm hạng đầu bảng trên thế giới. Trẻ con đứa nào cũng ho hen. Thế nên thằng Ilya gọi Magnitogork là cái đít của nước Nga cũng có lý của nó.

Ngôi nhà chính của nhà máy thép MMK (or MISW – Magnitogorsk Irn and Steel Works) dài 1km, được gọi là Con tàu đen, đến nay vẫn y chang như trong bài thơ của Stalin. Có một tượng đài ở Magnitogorsk, xấu như thể được thiết kế bởi điêu khắc gia Việt Nam, tượng đài hình cái lều bạt, tưởng niệm những người công nhân đầu tiên xây dựng nhà máy MMK, sống trong những cái lều tạm bợ để qua mùa đông.

Đại chiến Thế giới thứ hai nổ ra, Stalin cho chuyển hết những tập đoàn công nghiệp Nga khắp vùng Moscow và Ukraina về mạn Ural. Chỗ này cần nói thêm. Bọn Nga lợn mặc dù có lịch sử hào hùng dày dặn, từ chiến tranh đến văn chương đến khoa học đều là hàng khủng của thế giới, gái cũng thuộc loại đẹp nhất thế giới, nhưng vì bọn giai mặt cứ ngu ngu ngố ngố nên bọn chúng luôn có mặc cảm nhược tiểu. Thật kỳ lạ tại sao bọn gái đẹp vậy lại cứ đẻ ra bọn giai mặt ngu. Thế là bọn chúng cứ vừa hâm hâm ngô ngọng lại vừa dễ khùng lên khi có ai đó chạm tự ái. Bọn chúng cũng dũng mãnh, như tất cả các dân tộc nào còn tồn tại được đến ngày nay đều dũng mãnh cả. Nhưng cái lợi thế lớn nhất của chúng là đất chúng quá rộng. Bọn Mông Cổ đánh từ phương đông sang, thì chúng dạt về phương Tây. Bọn Thổ đánh từ phương Nam lên thì chúng dạt về phương bắc. Bọn Pháp đánh từ phương Tây sang thì chúng dạt về phương Đông. Cứ thế, bàn cờ quá rộng, chả ai thắng được chúng hoàn toàn. Lạnh quá lại không có vodka uống, thế là ngoại xâm lại thua hoặc tự rút đi.

Đại chiến WWII cũng vậy, khi xảy ra chiến tranh thì đại thi hào Stalin một mặt cho quân ứng chiến, mặt khác chuyển hết nhà máy về sâu trong lục địa, về miền Ural xa lắc. Hitler có đánh được hết các Minks, Moscow, Leningrad… đi chăng nữa, thì nguồn nhân mạng và kho thuốc súng của Liên Xô vẫn được bảo toàn từ phía Ural.

Và đây là hình ảnh biểu tượng cho thành phố Magnitogorsk thời WWII. Người Magnitogorsk làm ra thanh gươm và trao nó cho những người lính ra chiến trận. Đó là nhiệm vụ chiến lược của Magnitogorsk.

Tuy nhiệm vụ chính của Magnitogorsk là luyện thép, làm hậu phương, nhưng Magnitogorsk cũng đóng góp cho WWII mười ba nghìn liệt sỹ. Hồi bé xem phim Xã hội chủ nghĩa thì thấy người lính Hồng quân thật tuyệt vời thật anh hùng mà đầy tình người, gần đây xem phim Tây Âu thì thấy người lính Hồng quân thật bựa, thô thiển, chiếm được chỗ nào cũng uống rượu say đánh người rồi hiếp gái. Sự thật nằm ở đâu đó giữa hai thái cực đấy. Họ chỉ là những củ khoai bị các bếp trưởng Hitler Stalin cùng đồng nghiệp chế biến thành món khoai tây nghiền trong cuộc thi Master Chef vĩ đại ấy.

Chúng tôi được một bà giáo tiếng Anh già làm hướng dẫn viên du lịch dẫn đi một vòng Magnitogorsk. Tới tượng đài này, bà ấy nói, chân tượng đài được lát bằng đá granit vân đỏ, tượng trưng cho máu của người lính và người công nhân đã đổ xuống. Tôi không khỏi ngậm ngùi khi nhìn những phiến đá khắc tên mười ba nghìn anh hùng liệt sỹ Magnitogorsk. Cũng như lần nào cũng ngậm ngùi khi nhìn hai người lính đứng nghiêm bên Ngọn lửa bất từ ở Quảng trường Đỏ hay ngọn lửa ở Công viên chiến thắng ở Moscow. Cũng như lần nào cũng ngậm ngùi khi nhìn những dãy mộ bát ngát nghĩa trang liệt sỹ ở Việt Nam, hay lần nào cũng ngậm ngùi khi nhìn cái tượng đài liệt sỹ ở thị trấn quê hương ông cha mình.

Bọn họ đáng lẽ ra có quyền được sống dặt dẹo, uống rượu, bốc phét với nhau, tán gái, phản bội, nợ tiền nhau, bị con cái chê bai, vân vân… hơn là danh anh hùng được truy tặng sau khi đã chết theo vô vàn cách mà chẳng giống trong phim. Nhưng lịch sử của loài người là lịch sử chiến tranh.

Và đây là một điểm nhấn nữa của Magnitogorsk, mộ của một cha cố, nằm trước nhà thờ Chính thống giáo lớn nhất thành phố. Anh cha cố này, không hiểu sao, chưa google, lại bị anh Stalin thịt. Stalin giết rất nhiều người, tất nhiên giết một cha cố thì không có gì lạ cả, nhưng anh cha cố này chắc cũng hoành nên được người dân giữ lại mộ để tưởng niệm.

Đối diện mộ anh cha cố này ba trăm mét, là tượng đài của một vị thánh. Vào thế kỷ mười tám, khi thành phố này chưa có, chỉ là một khu mỏ lác đác có những gia đình thợ mỏ đến khai thác, thì ở đó có một người ăn xin. Người ăn xin hiền lành, chỉ xin ăn không xin tiền, chả nói năng gì cả. Sau khi người ăn xin chết, người ta phát hiện ra (???) đó là một vị thánh. Trở thành thánh thật đơn giản, chuyện này cần phải google.

***

Trên đây là tất cả những gì tôi đã biết về Magnitogorsk, qua nghe chuyện, google và wiki. Ngày nay MMK vẫn là tập đoàn thép lớn nhất Nga, dù ngọn núi Magnetic của nó đã bị đào tới đáy như người ta hút một cái mụn trứng cá, thì quặng vẫn được chở về đây từ khắp nước Nga để luyện thép, sản lượng của nó vẫn rất lớn. Đến nửa dân số của thành phố làm việc liên quan đến MMK bên kia sông Ural.

Trong một năm vừa qua, trong khi Sa Hoàng Putin đưa Crimea về với Đại Nga, thì tiền rub mất giá một nửa. Người dân ở Magnitogorsk, theo lời Ilya bồi bàn 23 tuổi nói, đã nghèo lại càng nghèo đi đáng kể. Tối nay ba thằng chúng tôi đi ăn nhà hàng, ăn no căng bụng toàn thịt bò bít tết, cá hồi, bia tươi, tính ra VNĐ có 200k mỗi thằng. 9h tối ra khỏi nhà hàng, phố đã vắng teo.

Hôm qua bà giáo viên tiếng Anh già dẫn chúng tôi đi thăm thành phố, qua đại lộ mang tên Lenin, bà nói, “sau Perestroika – Đổi mới – có trưng cầu dân ý để đổi tên đại lộ Lenin. Nhưng người dân thành phố cho rằng, dù sao đi nữa thì Magnitogorsk được khai sinh bởi những người đó bởi thời đó, không có họ thì không có chúng tôi ở thành phố này, cho nên vẫn cần giữ lại tên đại lộ, vẫn cần là đại lộ Lenin”. Và thằng Ilya 23 tuổi, cùng với ước mơ Mexico của nó, cùng với nỗi bực tức Magnitogorsk cái lỗ đít của nước Nga, vẫn hỏi tôi, anh có thích nơi này không. Tôi nói có, thành phố này không long lanh, nhưng nó có những đại lộ rộng, nó có những câu chuyện lịch sử, và con gái của nó rất đẹp. Ilya cười rất vui.

Tôi nói thêm, như là Victoria (em gái tóc đen cực xinh sáng thì phục vụ bữa sáng tối thì phục vụ quầy bar), cô ấy thật là đẹp. Ilya nói, “No, she is not beautiful, she is wonderful”.

***

Tối nay đi ăn về tôi lại vào bar làm một ly bia Baltika số 7. Hôm nay không có Ilya cũng không có Victoria xinh đẹp, chỉ có một bạn béo tên là Acnaxia. Tôi ra ngoài hút thuốc, trời đêm dưới 0 cũng rất lạnh, tôi run lập cập bước vào. Qua bức tượng Lenin, tôi chụp một tấm ảnh, rồi định vuốt má cảm ơn cụ tiếp, thì giật mình thấy hóa ra có một bà cụ đang đứng trông cửa. Ở Nga nhà hàng nào cũng có một bà già ngồi trông giữ quần áo cho khách.

Tôi không dám vuốt má Lenin nữa, mà chào bà cụ, nói rằng, “trời lạnh quá”, bà cụ nói, “phải rồi, rất lạnh, hãy giữ gìn sức khỏe”. Nhìn lại bức tượng, trông Lenin thật là cau có, nhưng thật cần phải tôn trọng ngài.

Trong các trò nghịch của mình, có thể tôi sẽ truyền dạy cho thằng con vài thứ, riêng thói lang thang phiêu lưu có khi phải xem lại. Bởi vì, thỉnh thoảng, kinh vãi đái. Bây giờ về tới khách sạn rót một cốc trà nóng ngồi gõ máy tính, nghĩ lại vẫn thấy lạnh cả sống lưng.

***

Hôm nay thứ bảy ngày nghỉ, bèn đi chơi. Tôi và hai thằng kia quyết định đi bộ thăm thú thành phố, đi về phía sông Ural. Tới cầu bắc qua sông, hai thằng kia cắm cúi chụp ảnh mãi không ngừng, tôi bèn tách đội đi bộ tiếp một mình.

Cầu bắc qua sông, dài khoảng nửa cây số. Bên tay trái, một nửa mặt sông vẫn còn đóng băng, bên phải thì băng đã tan hết. Gió lồng lộng thổi, trời xanh ngắt mặt nước cũng xanh ngắt. Cây bên đường và những cây bụi trên những doi đất nổi trên mặt sông đều khô queo chưa mọc ra cái lá nào.

Tôi muốn sang phía bên trái cầu, nhưng phải đi rất xa mới tới chỗ có thể qua đường. Vắng teo chẳng có mống người đi bộ nào cả, chỉ có xe điện chạy lịch xịch và những chiếc ô tô phóng qua vun vút. Đi mãi đi mãi, gió lạnh quá dù tôi đã mặc tới hai cái áo len. Tới cuối đường, thấy có một cái bến chờ xe điện, tôi bèn bước vào để tránh gió. Trong bến có một thằng đang ngồi, tay cầm một lon bia Klinskoe, bên cạnh có ba lon khác. Nó ngồi im như phỗng, chả thèm nhìn tôi, cứ chăm chăm nhìn sang bên kia đường, thỉnh thoảng cử động cánh tay phải để rót bia vào mồm.

Trông nó buồn thê thảm như bị gái đá hay bị mất việc vậy, chứ không giống người lang thang nghiện rượu. Túi bia Klinskoe kia thừa sức mua được một chai vodka. Chắc chắn không phải là thằng nghiện rượu mà là một thằng đang buồn.

Đối diện chỗ chúng tôi ngồi là một nhà máy điện hay một phân xưởng của nhà máy luyện thép hay gì đó chả biết, có ba cột ống khói, thả khói đặc quánh lên trời. Không khí có mùi đậm đậm. Chắc những gì người ta nói về tình trạng ô nhiễm của Magnitogorsk là sự thật. Ba ống khói này, cùng với một đống ống khói của Con Tàu Đen cách đây chừng 1km, luôn xả khỏi lên bầu trời thành phố như vậy.

Thôi kệ thằng buồn kia. Tôi quyết định sang đường, đây là chỗ có vạch sang đường rồi. Tôi sẽ đi ngược lại về phía thành phố, phía Châu Âu, rồi hết cầu sẽ xuống phía sông đóng băng. Tôi muốn thử một lần bước đi trên mặt sông đóng băng.

***

Đi mất gần nửa tiếng mới quay lại được về bên kia cầu. Tôi mua một bao thuốc, rồi đi về phía sông, chui xuống bờ sông. Bát ngát một vùng băng trắng toát, phía xa xa giữa những bụi lau sậy khô queo có bóng người, chắc là một ông già nào đó đục lỗ dưới mặt băng để câu cá. Tôi đi về phía đó.

Đi khoảng 100m, thì gần tới chỗ bụi lau rồi. Tôi định sẽ ra gần chỗ người câu cá, để chắc chắn rằng mặt băng chỗ đó rắn thì ông ta mới đi được. Và tôi sẽ bước ra sông, có thể nói chuyện với ông ta một tí, và chỉ cần bước ra mặt băng vài ba mét để chụp tự sướng một cái ảnh là được rồi, không cần ra quá xa nguy hiểm.

Tôi châm điếu thuốc. Bất đồ nhận thấy có một bóng người khác, không phải ông già câu cá phía xa, bước ra khỏi bụi lau. Một thằng đàn ông trẻ. Nó đứng hai tay buông thõng, chân hơi dang ra, bất động. Nó mặc một cái áo khoác mỏng có mũ, mũ kéo trùm qua đầu, nắng vàng chiếu gắt khiến cái mũ đổ bóng xuống khuôn mặt nó. Chỉ thấy đôi mắt sáng quắc.

Tôi giật mình, chào lớn tiếng “Xin chào”. Nhưng nó không trả lời, vẫn bất động. Tôi liếc nhìn xung quanh, không một bóng người, có khi người câu cá kia lại là đồng bọn của thằng này. Nỗi lo bắt đầu trùm lên tôi. Tôi chào lần nữa, nó vẫn không trả lời. Ba mươi giây sau, nó dợm bước lừ lừ tiến lại phía tôi. Khi nó bắt đầu đi, thì mặt trời chiếu thẳng vào mặt nó khiến tôi nhìn thấy khuôn mặt. Đó là một đôi mắt to, sáng, gườm gườm với đôi lông mày xếch. Vẻ mặt lừ lừ của nó có một vẻ gì đó ghê rợn khiến tôi rợn hết cả tóc gáy, lạnh toát sống lưng. Đó là đôi mắt đầy nguy hiểm, như của một kẻ tội phạm, một tên cướp.

Nhiều hình ảnh tưởng tượng lướt qua trong não tôi trong một phần mười giây. Trong đó, hình ảnh tồi tệ nhất là tôi sẽ bị giết, bị ném xuống cái lỗ câu cá dưới dòng sông băng kia. Thôi bỏ mẹ mình rồi!

Nó bước đến bước thứ ba thì tôi quay đầu bước đi. Tôi không chạy. Tôi nghĩ hễ chạy là nó biết mình đang sợ vãi đái và tình hình còn nguy hiểm hơn. Tôi bước chậm chậm đúng bằng vận tốc những bước chậm chậm của nó, tiến về phía đường. Tôi tính toán, từ đây lên mặt đường tới chỗ có người là khoảng 200m, nó đang cách tôi mười lăm mét. Trong điều kiện bình thường, nếu tôi không đen đủi vấp ngã ở đám băng trơn đoạn kia, thì tôi hoàn toàn đủ thời gian để chạy kịp. Lên tới chỗ có người, nó sẽ không làm gì tôi được nữa.

Đó là ba phút mà nỗi sợ phủ lên tôi từ đầu tới chân, lạnh toát như bị dội một gáo nước. Vận tốc của thằng kia tăng dần, tôi cũng bước nhanh dần. Chắc chắn không còn nghi ngờ gì nữa, nó đang bám theo tôi và tôi là mục tiêu.  Ôi cuối cùng cũng lên được đến đường, và dường như tôi đi hơi quá nhanh so với mình nghĩ, vì khi quay lại thì nó cách tôi khoảng ba mươi mét rồi, nhưng vẫn bám theo tôi. Khi tôi đến được chỗ những chiếc xe đầu tiên đậu bên lề đường, thì nó bắt đầu chạy. Đuổi theo tôi. Tôi thấy hoảng lên, định chạy. Nhưng lại có một ý kiến nữa nổi lên, là, này, đéo được sợ hãi như thế, hãy kiềm chế nỗi sợ hãi, đây là mặt đường rồi. Tôi nhớ lại bài học của bạn Hiệp dạy cho hôm sau tết, khi say khướt tequila, và bài học ngày xưa hồi bé có lần cha tôi dạy, là khi phải đánh nhau mà mình thế yếu, thì phải làm sao thật nhanh và mạnh, chặt cho kẻ địch một cái thật mạnh vào cần cổ, sát dưới cằm. Tôi hít một hơi sâu rồi dừng lại, quay mặt về phía thằng kia, chờ nó đến. Thay cho nỗi sợ, là cảm giác hồi hộp và hơi lạnh lùng xanh chín.

– Cho xin điếu thuốc – đấy là lời mà kẻ địch nói khi tiến lại phía tôi.

Tôi thở phào, nhưng cũng không tự chế giễu mình vì đã sợ hãi. Ở một nơi không người như bờ sông kia, với một kẻ như thế này, thì việc tôi rảo bước lên đường cái là chính xác. Và thằng này không phải là tội phạm, nhưng nó là một kẻ lang thang. Từ đầu đến chân nó bẩn thỉu bụi đất, tóc bết lại, khóe mép vương dãi như đã lâu rồi không rửa mặt đánh răng. Một mùi hôi nồng nồng toát ra từ đôi bàn tay to bè đen sì không cắt móng tay của nó, khi nó nhận từ tôi điếu thuốc.

– Anh đi đâu đấy mà ra sông?

– Đi dạo chơi.

– Thế à, tôi tên là Zairk (đại loại thế, tôi không nghe rõ lắm).

– Tôi tên là Đức.

Rồi hai thằng bắt tay nhau, đi sóng bước về phía chợ. Tay nó đúng là hôi thật, khô ráp, và cảm nhận được đó là đôi bàn tay cực khỏe, có thể bẻ gãy cánh tay tôi không khó khăn gì. Nói chuyện, cười và nhìn vào mắt nhau, tôi yên tâm vì khi nó cười thì cảm thấy nó là một thằng bé ngoan. Nhưng một thằng bé ngoan nhất cũng có thể vì nghèo đói mà nổi lòng tham và đánh cướp một người bên bờ sông, tôi lại thấy mình té là đúng chứ không sai, biết đâu nó đang đói thì sao, hay là nghiện ma túy thì sao…

Hai thằng đứng bên một thùng rác để hút nốt điếu thuốc. Tôi bảo, “chú có uống bia không, anh mời?”, Zairk gật đầu. Tôi dẫn nó vào quán bia tươi bên đường. Bước vào quán, thằng đứng quầy và con mụ tiếp viên có cặp mông vĩ đại đều trố mắt nhìn chúng tôi, một thằng Việt Nam và một thằng lang thang cơ nhỡ. Chắc chúng quá ngạc nhiên thấy hai thằng khách kì lạ như vậy. Vào bên trong nhà mới thấy mùi vị của thằng Zairk quả nhiên là không tắm cả mùa đông. Và chắc chắn là nó chẳng bao giờ dám bước chân vào một quán bia tươi sang trọng như thế này. Tôi gọi hai cốc to, loại ngon, Zairk ngại ngùng tiến bước về bàn xa nhất ở phía góc quán.

Thằng ku thật là xinh giai.  Đôi mắt của nó rất đẹp, rất đàn ông, khuôn mặt thon dài, mũi cao. Loại này, nếu cho tắm rửa sạch sẽ, mặc một cái sơ mi kẻng, thắt cà vạt, khoác bộ vest vào, thì ắt sẽ cực ngon nghẻ. Tôi xin nó cho chụp một tấm ảnh, để kỷ niệm, nó e ngại rồi cũng đồng ý.

Nhưng cũng đôi mắt này, đã toát ra cái nhìn lạnh cả sống lưng, dưới cái mũ trùm đầu khi đứng bên sông băng. Tôi bảo nó:

–  Lúc nãy ở dưới bờ sông, tôi sợ quá, tôi tưởng chú định đánh tôi.

– Tại sao lại đánh?

– Không biết. Tôi sợ. Lúc đó tôi chỉ có một mình. Hơn mười năm trước ở Moscow tôi từng bị đập một cái chai vào đầu, tôi sợ chú cũng làm thế với tôi.

– Tôi chẳng đánh ai bao giờ. Đánh người là không tốt.

Zairk nói nhiều và nhanh, tôi chỉ nghe được lõm bõm. Zairk 21 tuổi, không nghề, thất nghiệp, bò tới Magnitogorsk này làm khuân vác và bất cứ việc gì người ta thuê trong chợ. Có những ngày, hàng từ Siberia về nhiều, thì kiếm được khá, nhưng hầu hết là chẳng có mấy việc để làm. Một tháng Zairk kiếm được khoảng 100 USD. Số tiền đó đúng là chỉ vừa để có cái đút vào mồm. Không bia, không thuốc lá, không vodka, không quần áo ấm, không chỗ ngủ, chắc chắn là cũng không bạn gái, không bạn bè.

Đôi lúc mắt của Zairk lại ánh lên vẻ lạnh lẽo như khi ở bờ sông đã khiến tôi hoảng sợ. Nhưng khi nhìn gần thế này, thì vẻ lạnh lẽo đó không phải là cái lạnh của sự ác độc, mà là cái lạnh của nỗi buồn, sự cô đơn, thất vọng và chẳng biết làm gì với cuộc sống tệ hại nghèo đói này. Ở đâu cũng có những cuộc đời vô vọng như thế này. Mỗi lần gặp một cuộc đời như thế, tôi lại chạnh lòng.

Tôi bảo Zairk, bây giờ tôi phải đi rồi. Dù sao, dù nó ngoan đi nữa, cũng không thông minh khi ở cạnh nó quá lâu và nói nhiều khiến nó biết chỗ ăn chỗ ở của mình. Tôi sẽ vui nếu gặp lại Zairk, nhưng phải ở chỗ an toàn, không phải lại là bờ sông hoang vắng. Những cuộc đời vô vọng thì sẽ luôn bị người ta đóng cửa lại như thế, biết làm sao được. Tôi trả tiền và hai thằng ra khỏi quán, đứng hút với nhau một điếu thuốc nữa.

Zairk nói, cảm ơn anh vì cốc bia, và vì tình bạn. Tôi nghĩ có nên biếu nó vài trăm rúp không, nhưng lại thôi, vì vài trăm chả giải quyết gì cái cuộc đời vô vọng này của nó, lại còn có thể mất đi sự tôn trọng chân tình với nhau. Tôi đưa nó bao thuốc, mới hút có 5 điếu, bảo nó, chú cầm đi, anh không thích thuốc này, chán, anh chỉ thích thuốc Việt Nam. Zairk cầm. Bắt tay nhau, nói tạm biệt, nói vui vì đã gặp nhau. Tôi bước về phía phố xá nơi có khách sạn của mình. Zairk quay bước về lại phía dòng sông.

Tạm biệt Zairk, kẻ đã tặng tôi khoảnh khắc sợ hãi lâu lắm rồi mới gặp lại, hãy cố gắng mà vật lộn với cuộc đời này. Chúc Zairk may mắn.

***

Trong dòng đời bất tận này, đôi khi chúng ta cắt ngang qua nhau, lưu lại cho nhau một kỷ niệm nho nhỏ, chỉ để sau này nhớ lại rằng ở chỗ đó vào lúc đó, đã gặp nhau. Như tôi và Zairk, năm điếu thuốc, hai cốc bia tươi, và nỗi sợ hãi bên bờ dòng sông băng hoang vắng.

Mấy ngày mới đến Magnitogorsk này, mỗi ngày lại thấy một điều mới mẻ cần ghi lại.

Như đã kể, dạo gần đây tôi bị chìm vào nhạc cổ điển. Cổ điển thì tôi vốn nghe vớ nghe vẩn thôi, nghe nhạc nhẹ rock riếc là chủ yếu, cổ điển chỉ thỉnh thoảng hôm nào khỏe mới xơi, hoặc chỉ thường nghe Chopin là chủ yếu, đỡ mệt. Nhưng gần đây, như thể có một bản pack mới được cài vào đầu, tôi nghe cổ điển rất vào. Độc tấu, tam tứ tấu, concerto, giao hưởng, opera, nhạc kịch… xơi tuốt. Mà cũng bỏ luôn cái thói “giá như không có ruồi”, tức là cứ bảo nghe cổ điển là chất lượng âm thanh phải tốt, nguồn vào phải tốt, dàn máy phải xịn, phòng phải rộng, phải nhiều thời gian ngồi nghe…. bỏ hết mấy thứ vớ vẩn ấy. Tôi nghe mọi lúc mọi nơi, bằng mọi thứ, trên xe buýt khi đi bộ bằng headphone, ngồi máy tính ở nhà nghe từ youtube bằng quả âm ly đểu giá 2tr và đôi loa đi xin được, mấy ngày nay thì nghe bằng loa máy tính giá 400k cũng vẫn chả thấy làm sao cả, phê như thường.

***

Hay nghe nhạc cổ điển, đến chọn phim để xem cũng tình cờ gặp phải toàn phim có nhạc cổ điển. Hôm lâu thì xem phim Nhật, có thằng nhạc công cello thất nghiệp về quê làm nghề khâm lượm xác chết. Xem nó khâm lượm xác cũng duyên dáng như kéo cello. Hôm trước ngồi máy bay sang đây, chọn đại một phim trong danh mục của VietnamAirlines để ngồi xem, thì cũng với ngay phải một phim có nhạc cổ điển. Phim rất hay, ai vừa muốn ngắm gái lại vừa muốn nghe nhạc cổ điển và nhạc rock thì nên xem phim đó, phim If I stay (2014). Nhạc nhẹ trong phim thì hơi cùi bắp nhưng bù lại có những trích đoạn của Bach và Beethoven rất phê.

Xuống máy bay, vẫn bâng khuâng vì mấy đoạn Cello của Bach, tôi lại cắm tai phone nghe Hilary Hahn kéo các bản của Bach, chờ hải quan hai tiếng không sốt ruột. Trộm nghĩ là lần này mò sang Nga, không bố trí được vào Nhà hát Bolshoi Moscow thì ắt phải tìm xem Magnitogorsk có cái nhà hát nào không để đến nghe.

Google thấy Magnitogorsk có nhà hát, gọi là Nhà hát Ballet và Opera Magnitogorsk, lại đúng hôm nay Chủ nhật có chương trình nhạc thính phòng, do các soloist địa phương biểu diễn, bèn đi nghe. Giá vé 250 rúp tức là 4$ quá rẻ. Gọi là nhạc thính phòng cho nên nó được tổ chức trong một phòng nhỏ, chỉ có hơn một trăm ghế ngồi. Toàn ông già bà cả đi nghe, à không, toàn bà già, đàn ông được mấy mống. Sao các bà già lại nghe nhạc nhiều hơn các ông già nhỉ?

Tuy vậy, cũng có 2 mống khán giả là gái trẻ, rất trẻ, chắc chưa được 18 tuổi. Khi phê quá rút điện thoại ra để quay lại một hai bài hát, tôi có lướt qua 2 cô bé này, để minh chứng việc  nói gái Magnitogrosk đẹp không phải là bốc phét.

***

Tất cả các Soloists, và hai cô gái chơi piano, đều là người của nhà hát Ballet & Opera Magnitogorsk. Đây là một điều khá ngạc nhiên, vì ở thành phố 400 nghìn dân cũ kỹ buồn tẻ nhà quê này, người ta vẫn có được một nhà hát lớn như thế với đầy đủ biên chế nhạc công, ca công và vũ công.

Google thì lại ngạc nhiên hơn. Ngôi nhà hát lớn này thì có lâu rồi, nhưng Đoàn nghệ thuật Ballet và Opera Magnitogorsk thì mới được thành lập từ 1996. Vào cái thời mà Liên Xô đã sụp đổ và nghệ thuật bao cấp mậu dịch quốc doanh đã không còn, thời khủng hoảng ấy, người ta vẫn nghĩ đến việc thành lập một nhà hát, duy trì nó để phát triển văn hóa của thành phố.

Hôm nay các nghệ sĩ của nhà hát trình bày một loạt ca khúc cổ điển, thế quái nào bài nào cũng hay. Bảo sao các khán giả già cả cứ một mực kính trọng vỗ tay không ngớt cho các nghệ sỹ. Những nghệ sỹ opera của họ hát rất hay, quá hay so với dự đoán của tôi. Piano chơi cũng rất hay.

Tôi cố quay trộm lại vài clip, nhưng chất lượng không tốt lắm, cũng vì cảm thấy xấu hổ nếu cứ ngồi giương điện thoại lên quay, dù ngồi hàng cuối.

Thật đáng nể, những nghệ sỹ và những người dân của thành phố công nghiệp buồn tẻ và khô khan này. Họ vẫn duy trì và phát triển cho riêng mình một mảnh ghép trên tấm bản đồ âm nhạc đầy tự hào của nước Nga.

Khán giả có hơi già cả một chút, quá già cả – toàn các bà già về hưu đi tàu điện đến rồi lại kéo nhau lên tàu điện về. Nhưng có lẽ là chương trình ca khúc thính phòng hôm nay không hấp dẫn nhiều giới. Chứ còn, nhà hát có một lịch biểu diễn dày đặc trong năm, họ không thể ít khán giả được. Mỗi tuần đều có chương trình mới. Và vào cuối tháng tư (thật tiếc lúc đó tôi đã về rồi), họ có một chương trình ấn tượng kéo dài một tuần với các nghệ sỹ quốc tế đến từ Pháp, Italia và Mông Cổ. Những buổi biểu diễn đó, ví dụ như buổi diễn vở Carmen, chắc chắn sẽ kéo được đông đảo các đàn ông đàn bà giai thanh gái lịch của thành phố này đến nhà hát, chứ không phải chỉ có 2 cô bé xinh xắn kia.

Riêng về khoản này, người đàn ông sành điệu đến từ Hà Nội 36 phố phường – thủ đô nước CHXHCN Việt Nam – cảm thấy ghen tị với bọn Magnitogorsk nhà quê.

Thật đáng nể, những nghệ sỹ và những người dân của thành phố công nghiệp buồn tẻ và khô khan này. Họ vẫn duy trì và phát triển cho riêng mình một mảnh ghép trên tấm bản đồ âm nhạc đầy tự hào của nước Nga.

Khán giả có hơi già cả một chút, quá già cả – toàn các bà già về hưu đi tàu điện đến rồi lại kéo nhau lên tàu điện về. Nhưng có lẽ là chương trình ca khúc thính phòng hôm nay không hấp dẫn nhiều giới. Chứ còn, nhà hát có một lịch biểu diễn dày đặc trong năm, họ không thể ít khán giả được. Mỗi tuần đều có chương trình mới. Và vào cuối tháng tư (thật tiếc lúc đó tôi đã về rồi), họ có một chương trình ấn tượng kéo dài một tuần với các nghệ sỹ quốc tế đến từ Pháp, Italia và Mông Cổ. Những buổi biểu diễn đó, ví dụ như buổi diễn vở Carmen, chắc chắn sẽ kéo được đông đảo các đàn ông đàn bà giai thanh gái lịch của thành phố này đến nhà hát, chứ không phải chỉ có 2 cô bé xinh xắn kia.

Riêng về khoản này, người đàn ông sành điệu đến từ Hà Nội 36 phố phường – thủ đô nước CHXHCN Việt Nam – cảm thấy ghen tị với bọn Magnitogorsk nhà quê.

Trong Chiến tranh thế giới thứ 2, Magnitogorsk đóng góp 13 nghìn liệt sỹ, tức là hàng chục nghìn thậm chí cả trăm nghìn người đã tham gia chiến tranh. Thử tưởng tượng rằng, có một người thanh niên trong số họ, tên là Mikhail Balandin hay Artur Balandin hay vân vân, thôi gọi là Artur đi. Đàn ông ở đây nhiều người tên Artur.

Artur Balandin dong dỏng cao, tóc vàng, sinh tầm đầu 1920s, tới khi chiến tranh nổ ra thì anh 19 – 20 tuổi, cầm súng ra trận. Artur tham gia rất nhiều trận đánh, suốt từ 1941 đến hết chiến tranh, trải qua nhiều mặt trận, từ nội địa Nga tới Warsaw tởi Berlin. Suốt cả cuộc chiến, lúc nào trong túi anh cũng có một chiếc bật lửa mà một đồng đội lớn tuổi đã tặng cho anh từ những ngày đầu quân ngũ.  Đó là một chiếc bật lửa rất đẹp bằng thép trắng, thân bật lửa gắn một miếng mạ đồng có hình chân dung nhìn nghiêng của một vị tù trưởng da đỏ. Anh luôn giữ nó trong túi ngực trái, nơi có chiếc ví nhỏ giữ hình người yêu xinh đẹp của anh.

Anh tin rằng đó là chiếc mật lửa mang lại may mắn, giữ cho anh mạng sống để trở về. Và anh đã trở về thật, không nằm trong số 13 nghìn ngôi mộ liệt sĩ của Magnitogorsk, và lành lặn. Vợ anh sinh cho anh mấy người con, trong đó có người con trai út là Vladimir Balandin. Rất nhiều năm sau đó, Vladimir lấy vợ và sinh ra một đứa con trai, nhưng thằng bé vừa chào đời được hai năm thì Vladimir rủi ro mất sớm. Ông già Artur Balandin lòng buồn vô hạn, chợt nhớ tới chiếc bật lửa Tù trưởng da đỏ, vật mang lại may mắn. Ông bèn lục lại nó tận dưới đáy hòm đồ cũ thời chiến tranh, tặng nó cho người con dâu. Tới khi đứa bé lớn lên, thì mẹ nó giao lại chiếc bật lửa cho nó, như một kỷ vật vô giá của người ông nội đã mất.

Thằng bé có tên Ilya Balandin. Và đây là chiếc bật lửa kỷ vật của ông nội nó, vật may mắn đã giúp ông nội của Ilya vượt qua hàng nghìn dặm chiến trận kinh hoàng của WWII.

***

Buổi tối ở Magnitogorsk thời gian rất dài. Tới gần khuya, tôi thường xuống bar ngồi làm vài cốc bia. Ở bar hoặc có em Victoria mi nhon mông cong mặt lúc nào cũng vênh ngược lên trời, hoặc em Olessia nhỏ xinh nhưng mặt lúc nào cũng buồn như bị bồ đá, hoặc em già Katherin luôn tươi cười nhưng chỉ cười và không bao giờ nói gì. Tôi luôn ngồi nói chuyện với Ilya.

Ilya nợ tiền một bọn mà nó gọi là Mafia, thường phải làm việc cật lực từ sáng đến khuya, hết ở bar lại đi làm bảo vệ. Một tuần sẽ có hai cho đến ba đêm nó không được ngủ. Thật vất vả. Ilya mới có 23 tuổi, rất trẻ, và có một cô vợ cũng rất trẻ. Ilya cao hứng khoe rằng, vợ của nó có một bộ ngực khủng rất rất đẹp và nó yêu bộ ngực đó đến nỗi sẵn sàng làm mọi thứ trên đời, dù vất vả đến mấy. Tôi uống cốc bia rồi bảo, nhiều lúc anh muốn anh có thật nhiều tiền. Nó hỏi tại sao. Vì anh có nhiều tiền thì anh có thể giúp chú. Ilya nói, cảm ơn, nhưng tôi sẽ tự vượt qua khó khăn. Anh thấy đấy, tôi rất khỏe, tôi có thể làm việc cả ngày cả đêm. Nhưng nó nói thêm, phải cái, tôi là một thằng ngốc, một thằng durak.

Tôi bảo, anh thấy chú rất buồn cười nhưng không phải một thằng durak, thời gian còn dài và biết đâu sau này chú sẽ kiếm được rất nhiều tiền. Ilya cười, nói, hy vọng thế. Những câu chuyện của chúng tôi cứ nhẩn nha lanh quanh như vậy. Tôi bảo Ilya, cuối tuần này chú rảnh không, đưa anh với hai thằng đồng nghiệp anh đi lên núi, thử trượt tuyết một phát. Ilya đồng ý ngay, bảo, tôi đang sửa cái xe, nhưng đến cuối tuần chắc xong, tôi sẽ đưa anh đi và dạy anh trượt tuyết. Tôi đã đi nghĩa vụ 2 năm, ở trong quân ngũ tôi học được mọi thứ, từ lái xe, cưỡi ngựa, bắn súng, và cả trượt tuyết.

Tối hôm kia tôi về khá muộn, chơi bowling với mấy thằng đối tác, uống rõ lắm bia. Lất ngất về tới, Ilya nhìn thấy bèn gọi vào bar, rồi bảo, xe đã sẵn sàng, có xem xe không. Tôi ra sân, chui vào con xe Lada Samara siêu ghẻ, số má lọc xọc, đạp côn pạc pạc mấy phát mới ăn, máy gầm lên rất phê, rồi lượn một vòng ra sân sau khách sạn rồi lượn về, không dám ra đường nhỡ cảnh sát bắt bỏ mẹ. Tôi bảo, đây là con xe phê nhất anh từng lái, Ilya rất khoái trá. Xe này tôi mua mấy tháng trước, giá nghìn rưởi đô.

Đêm qua tôi xuống bar, bảo Ilya, còn vài chục phút nữa là sang ngày mới, là ngày sinh nhật anh, chú có uống vodka với anh không. Ilya từ chối, bây giờ tôi còn phải đi làm ca nữa. Thôi hẹn nhau ngày mai đi trượt tuyết.

***

Trưa nay trượt tuyết một hồi, Ilya khen tôi giỏi, dễ dạy, nhưng vẫn còn kém lắm hehe. Rồi rời bãi tuyết, tháo giày, ra ghế đá ngồi thở. Đoạn, Ilya nói, tôi có một món quà nhỏ tặng sinh nhật anh. Quà nhỏ nhưng rất quý.

Đây là chiếc bật lửa của ông nội tôi, bật lửa này ông tôi có khi tham gia quân ngũ. Sau ông nội tôi cho mẹ tôi, rồi đến tôi giữ. Hôm nay tôi tặng nó cho anh. Đây là chiếc bật lửa may mắn. Tôi giật mình sửng sốt trước giá trị của món quà. Bèn hỏi lại cho kỹ, ông nội của chú tham gia quân ngũ khi nào, thì được biết đó là chiến tranh thế giới thứ hai. Chiếc bật lửa này mang lại may mắn, ông nội tôi luôn giữ nó bên mình, nay tôi tặng nó cho anh, người bạn tốt nhất của tôi, hãy giữ nó bên mình và nó sẽ mang lại cho anh may mắn.

Tôi chả biết tại sao tôi lại là bạn tốt nhất của thằng Ilya, tuyền chỉ ngồi bar tự uống bia, còn chưa mời được nó ly nào vì nó không uống trong giờ làm việc. Nhưng tính lịch sử của kỷ vật và tình cảm chân thành vô điều kiện của người tặng, khiến tôi gai cả sống lưng. Tôi đứng dậy, đặt tay lên ngực cúi chào và nói cảm ơn. Ilya Balandin cũng đặt tay lên ngực chào đáp lại, và nói, đây là chuyện từ trái tim tới trái tim. Đoạn Ilya cười khanh khách lên, oh shit, đi hút thuốc đi.

***

Khi về tôi sẽ thử bơm gas vào xem cái bật lửa 1940s thậm chí 1930s này có còn dùng được không. Tôi ngạc nhiên thấy bộ phận đánh lửa của nó vẫn hoạt động, vẫn đánh tia lửa.

Cảm ơn Ilya Balandin.

Anh chả có gì tặng lại hay đáp lại chú. Chỉ mong chú và bộ ngực khủng nhà chú sẽ gặp nhiều may mắn.

ôi đã gói ghém tất cả hành lý của mình, đóng vào vali. Cái vali tôi mượn của mẹ, khi đi còn rộng rãi, khi về đã đầy ặc. Đè mãi mới kéo được khóa. Một là do khi đi thì vợ tôi xếp đồ cho nên gọn gàng, giờ đây tôi xếp lại tới hai lần vẫn không gọn được. Hai là nó cũng nặng thêm. Một cái chân để đàn khá cồng kềnh, mấy chai rượu Cognac Ararat, loại tôi hay uống dưới bar, và một vài đồ linh tinh mua ở đây.

Ararat ở đây bán rẻ, về tới HN chúng sẽ đội giá lên ít nhất 2 lần. Thói lắm mồm đôi khi hại thật. Tôi kể cho hai thằng đồng nghiệp về Ararat và chúng bắt chước tôi cùng vét sạch các chai Cognac ngon ở chợ quê Magnitogorsk. Mặc dù, tôi cam đoan chúng không thể phân biệt nổi whisky và brandy. Chuyện tôi kể, là nghe bạn Hải cave kể. Bạn kể rằng bọn Pháp khệnh khạng vốn chỉ dùng tên cognac để đặt cho loại brandy hảo hạng xứ Cognac, vào tầm trước 1900 bọn Armenia cũng làm brandy và đi thi, quá ngon, nên được đặc cách đặt tên là Cognac, Cognac Armenia, với thương hiệu Cognac Armenia nổi tiếng xuyên thời Liên Xô và cả bây giờ, là Ararat.

Bạn Hải cave không kể, làm sao tôi biết được giá trị, chỉ uống thấy ngon mà thôi. Trong nhà có cave quả nhiên lợi hại. Tôi mua mấy hạng Ararat. Hạng bét, 3 năm, vẫn ngon nhưng hơi hắc, tôi dùng để tôi uống. Hạng nhì, 5 năm, không còn hắc, rất ngon, tôi sẽ dùng để uống với bố và thằng em trai, và biếu sếp. Hạng nhất, mềm môi, mượt mà, uống như uống từ môi người đẹp, tôi sẽ xách đến nhà bạn Kỳ, để mấy thằng Kỳ Tâm Hiệp Hải cùng thưởng thức. Bọn chúng sành rượu hơn tôi (tôi uống loại 3 năm là ok) nhưng cần phải mang chai 15 năm cho chúng thưởng thức. Chúng là bọn mạt hạng đến nỗi tôi tin rằng người ta cầu kỳ chế ra những thứ rượu tinh tế cá tính nhất là để cho tầm bọn chúng uống. Có thể Ararat có nhiều loại xịn hơn nữa, nhưng đây là xịn nhất ở Magnitogorsk rồi và giá trị là ở đó.

Tôi nhìn quanh bàn mình, vẫn còn vài thứ cần nhét vào vali nữa. Thôi, tí nữa xong entry Magnitogorsk cuối cùng này tôi sẽ tìm cách nhét chúng vào vali, để sớm mai lên đường.

Tôi vẫn còn một hành lý nữa cần đóng gói, là lời chào tạm biệt của vợ chồng Ilya.

***

Liubia ôm tôi tạm biệt, rồi nàng giơ bàn tay lên đập tay với tôi, rồi xốc balo lên vai, đi qua khoảng sân, khuất dạng vào bóng tối nơi những cây bạch dương cuối mùa đông vẫn khô khốc nhưng chỉ năm mười ngày nữa sẽ đâm chồi. Liubia 22 tuổi, hơi béo, tóc dài, có đôi mắt nâu rất đẹp. Nàng tất nhiên là một gái đẹp. Tối nay nàng đến chỉ để uống với tôi một ly Ararat để tạm biệt.

Tối qua, khi tôi đứng hút thuốc với Ilya, thì gặp Liubia đang ra về, nàng đứng lại chào và hút thuốc cùng. Ilya nói, Đức chỉ còn ở đây ngày mai, Liubia làm bộ giơ tay lên quệt nước mắt, rồi cười, nói, hãy quay trở lại. Rồi nàng bảo, hôm nay cũng là ngày cuối cùng tôi làm ở đây, ở cái restaurant và cái bar chết tiệt này. Tôi nói, vậy ngày mai cô không làm việc ở đây, cô có thể đến và uống với tôi một ly không, Liubia nhận lời. Và Liubia đã đến chỉ để uống với tôi đúng một ly Ararat.

Chúng tôi ngồi xuống bàn. Liubia không thể nói một từ tiếng Anh nào còn tiếng Nga của tôi thì rất sơ sài. Nhưng tôi vẫn buông lời ngợi khen tán tỉnh nàng. Một người ngoại quốc kém ngôn ngữ luôn có đặc quyền là hắn có thể nói những câu rất đơn giản rất mộc mạc nhưng rất lọt tai người nghe. Tôi nói, tôi thích thành phố này, vì ở đây tôi có những người bạn đáng yêu như cô, và như Ilya (tôi thêm thằng Ilya vào cho nó trung tính). Liubia cười vui sướng.  Liubia, cô có đôi mắt rất đẹp, mà người ta sẽ muốn nhìn không dứt. Liubia cười đúng như nét cười vui vẻ của một cô gái 195x cười trong một bộ phim cũ. Tôi lại nói, Liubia, cô rất xinh đẹp và còn rất trẻ, tôi thật lòng mong ước cô sẽ hạnh phúc và gặp nhiều may mắn. Liubia giơ hai bàn tay áp lên má, đỏ mặt (nếu ai hay đọc truyện Nga thì sẽ thấy người ta luôn tả các cô gái Nga đỏ mặt khi nghe lời tán dương, và đó là sự thật), nói, tôi rất vui và rất cảm ơn anh vì những lời nói tốt đẹp như thế. Ở đây, ở Magnitogorsk này, người ta không nói những lời tốt đẹp với nhau, tôi thật hạnh phúc vì được nghe những lời tốt đẹp.

Rồi tôi nhìn đồng hồ, một ly Ararat và 15 phút đã hết, đến giờ Liubia phải về. Chúng tôi ra hút điếu thuốc và chia tay nhau, nàng ôm tôi như một người con gái rồi đập tay với tôi như một thằng con trai, khoác balô đội mũ lưỡi trai rồi khuất bóng vào rặng bạch dương trụi lá mà năm mười ngày nữa sẽ đâm chồi.

***

Ilya nói với tôi, tối qua, rằng, tôi nói thật đấy, xin hãy tin, anh là bạn tốt nhất của tôi, best of the best (Ilya đang tập nói tiếng Anh và luôn dùng tiếng Anh khi có thể). In this city, this Magnitogorsk city, more, very more bad persons, bad guys. Ilya luôn dùng từ “more” để nói cái gì đó nhiều. Ilya nói thế sau khi tôi đưa nó một nghìn rúp, tương đương 20 đô. Ilya cả buổi có vẻ rất buồn bực, vì chia tay với  tôi, nhưng còn vì gì đó khác và tôi gặng hỏi thì được biết nó phải trả tiền nhà nhưng còn thiếu một ít, một nghìn rúp.

Ở đây, nhưng người tử tế hoành tráng, có thể nghĩ rằng tóm lại là vay tiền. Nhưng tôi không nghĩ thế, tôi biết thế nào là khó khăn và nợ nần. Tôi biết cái cảm giác khi ngồi điểm danh các bạn bè người quen xem ai có thể vay tiền. Tôi biết sự cay đắng nhục nhã ấy, chẳng phải một lần, mà lần gần nhất còn rất gần đây còn chưa ráo bàn phím. Tôi chẳng để Ilya phải nói, tôi biết nó muốn gì, khi nó nói ngày mai phải trả tiền nhà mà còn thiếu một ít nên lo lắng. Tôi nói luôn, kèm theo vài từ chửi bậy tiếng Nga, mà dịch mượt mà ra tiếng Việt thì là “đéo gì, anh đưa mày tiền để đủ sáng mai đi trả tiền nhà, có cái đéo gì đâu, chả có nợ nần gì cả, anh biếu mày dcm dcm đừng giương mắt ra thế”. Ilya lấy cái tablet của tôi, mở translator, viết một câu rất dài ngữ pháp chuẩn mực từ ngữ như SGK mà nó biết rằng chỉ nói thì tôi sẽ không hiểu, phải viết, rằng tôi rất xấu hổ và tôi chưa bao giờ hỏi tiền ai nhưng hôm nay thế nào mà tôi lại nói ra như thế và tôi không biết làm sao để tỏ lòng biết ơn. Tôi trả lời lại trên tablet dù tôi chửi bậy tiếng Nga tốt, nhưng vẫn viết trên translator cho lịch sự, dịch ra tiếng Việt xuôi tai sẽ là “dcm nói như k..!”.

Rồi hai thằng ra ngoài hút thuốc, tôi đưa Ilya nghìn rưởi, bảo, đây góp vào mai trả tiền nhà, và mua cho vợ chú mấy bông hoa. Ilya nói, tiền mua hoa thì không, giờ hàng hoa còn mở cửa, nếu anh muốn mua hoa tôi sẽ đưa anh đi. Tôi gật đầu. Đoạn Ilya ra nổ máy con Lada siêu ghẻ (mà tôi biết lần trước tôi nghe nhầm, thằng này không đủ tiền mua xe đâu mà nó sửa lại xe của ai đấy cho không). Ilya đưa tôi ra hàng hoa, tôi thấy những bông hồng rất đẹp nhưng tôi không hiểu gái Nga đủ để biết là một thằng bạn chồng thì có nên gửi tặng hoa hồng hay không. Tôi chỉ hoa khác, nhưng Ilya lắc đầu, tôi hỏi thế vợ chú thích hoa gì, Ilya chỉ hoa hồng. Tôi mua 3 bông hồng bạch rồi thêm 2 bông hồng đỏ. Vào xe, tôi đưa cho Ilya, nói, đây là anh tặng vợ chú, hãy nói với cô ấy là anh muốn bày tỏ niềm vui và tự hào vì có người bạn như chú. Ilya giơ hai tay lên trời, “Oh my God, you are the best” cảm ơn anh, vợ tôi cực kỳ cực kỳ thích hoa hồng, nhưng tôi chẳng bao giờ đủ tiền mua hoa tặng cô ấy. Khi tôi cầm bó hoa này về nhà, cô ấy sẽ nhảy lên bá cổ tôi và hôn tôi.

Ilya bừng cháy và đạp côn pạc pạc, nhấn ga cua một vòng bá đạo qua ngã tư, xe Lada chồm lên phấn khích. Đã lâu tôi chẳng mua hoa tặng vợ tặng mẹ hay con gái mình. Tôi biết mình thật lởm. Nhưng cuộc đời, có những nếp gấp xéo như thế. Anh có thể là bạn tốt của một người lạ nhưng anh là một thằng lởm với bản thân mình và những người thân. Và ngược lại.

Hôm trước, ngày đâu tiên tôi đi trượt tuyết, Ilya dẫn tôi đi, bằng con xe Lada ghẻ này. Nó dạy tôi trượt tuyết, rồi về nhà Anna ăn cơm trưa, rồi lại đưa chúng tôi đi Bania, phòng tắm hơi cổ truyền. Nó đứng dạng chân chim cò lông nhông cầm lá cây quất lên người tôi và các bạn, miệng nói những câu thành ngữ tiếng Nga đại loại tôi không thể hiểu được. Vợ nó gọi điện liên tục. Hôm sau, nó nói, về vợ mắng. Ilya trả lời vợ, anh ấy là người rất tốt, tôi đi với anh ấy có gì sai. Vợ Ilya vẫn mắng. Ilya nói, thế là tôi bèn bế cả cô ấy cả bộ ngực của cô ấy vào phòng, và làm tình hai tiếng, xong, thế là hết mắng, Ilya cười lên khanh khách.

Đấy, lại nhắc tới Anna, Anna là một cô béo. Đi trượt tuyết về cô ấy mời chúng tôi tới một ngôi làng nhỏ mà rất giàu có, và gặp mẹ và chú và thím của cô. Ông chú của Anna rất hoành tráng, giàu có, sở hữu một chiếc xe xịn và một ngôi nhà 100% gỗ vô cùng xịn. Ông chú của Anna kết tôi vì tôi biết uống rượu vodka đúng kiểu với ông ta. Và vì tự nhiên ông ta thấy thích. Ông ta là fan của Putin. Ông ta và vợ ông ta cười xì một tiếng khi tôi nói đến Ukraina, “giờ làm gì còn Ukraina”. Thế là tôi dừng, lịch sử chính trị đéo gì, vodka đi. Ông ta là một mugic , chỉ xem TV và đừng hỏi tại sao Putin vẫn có chỗ đứng trong lòng những người mugic như ông ta. Nhưng chuyện đó rốt lại không quan trọng. Và dù ông ta vẫn quý Việt Nam theo một cách rất khó ưa, tất nhiên khó ưa đối với tôi, là vì VN chúng mày bắn AK rất giỏi, bem nhau với Mỹ, dcm bọn Mỹ! Tôi với ông ta dốc quá nửa lọ vodka với nhau, mà nói chỉ có vài câu Mỹ với VN bem nhau, Nga với Đức bem nhau ở WWII. Tôi đã hết tuổi tự hào dân tộc cũng như hết tuổi vui vẻ khi thấy một lão tây biết đến VN vì bắn AK tốt, nhưng không sao, ông ấy là một người đáng quý đáng yêu. Và mùa xuân sắp đến, và mặt hồ gần nhà ông ấy đang sắp tan băng, và cây thông trong nhà ông rất đẹp, và vì ông ấy là một người tốt. Ông bá vai bá cổ tôi để chụp ảnh, rồi khi ra về, ông vào nhà rồi chạy ra tay cầm một con chim sẻ bằng thạch cao, nói, tao chả có gì tặng mày, thôi cầm con chim sẻ này về bày hoặc cho con chơi.

***

Tôi cứ liên thuyên mãi. Ngày mai chia tay thành phố này rồi.

Bây giờ tôi tắt máy tính, xếp vào vali, tất cả sẵn sàng. Tôi sẽ tháo toàn bộ quần áo còn đang mặc cho vào túi bẩn cất vào vali, xếp bộ quần áo ngày mai cho ngay ngắn trên ghế, rồi lông nhông ngủ. Sáng mai 5h30 tôi dậy tắm và mặc quần áo mới, rồi ăn sáng và đi.  Ilya hứa cùng vợ đến đưa tôi ra sân bay để tiễn tôi. Nếu chú ta đến, tôi sẽ để hai đồng nghiệp của tôi đi xe của công ty đối tác. Tôi sẽ đi siêu xe Lada cực ghẻ của Ilya. Tôi chắc chắn rằng cậu ta sẽ ôm lấy tôi và nhấc tôi lên khỏi mặt đất bằng đôi cánh tay khỏe mạnh của cậu ta. Còn tôi sẽ lịch thiệp duyên dáng và tôn trọng nhất có thể, cúi chào vợ của Ilya, có thể tôi sẽ hôn tay nàng như trong phim.

Nếu tôi là gái, chắc chắn tôi sẽ ướt nước mắt khi vẫy tay chào Ilya Balandin bồi bàn 23 tuổi và vợ chàng. Nhưng vì tôi là giai, nên tôi sẽ đặt tay lên ngực và cúi chào vợ chồng chàng, nói, “Đéo gì, tạm biệt nhé, anh sẽ nhớ chú và cái thành phố Magnitogorsk như k.. này, cái lỗ đít của nước Nga! Chúc may mắn và biết đâu gặp lại”.

Tạm biệt Ilya và cái thành phố mạt rệp này của chú, nhưng chú và thành phố buồn tẻ này đã khắc một vết sâu rất sâu rồi.

Hồi ức về quãng đời không thể nào quên ở Hồng Kông

Ghi chép của tác giả Vulq71, diễn đàn otofun

Những năm cuối thập niên 80 90 thế kỉ trước, phong trào vượt biên ở Hải Phòng, Quảng Ninh rất rầm rộ. Nhà nhà vượt biên, người vượt biên, đi đâu cũng thấy thì thào thậm thụt, bàn tán xôn xao. Nào là nhà kia mới đi có 1 tháng mà đã viết thư về rồi đấy, nào là vợ chồng nhà nọ đi đến mấy lần cả thảy mới thoát được. Người thành công cũng nhiều mà làm mồi cho cá cũng chả kém. Nổi tiếng nhất là vụ Gió Nam (tên một quán cà phê hiện vẫn còn trên phố Cầu Đất, có lẽ gọi là vụ Gió Nam vì do chủ quán tổ chức hay sao ý) con tàu chở người vượt biển bị đắm chết gần hết, trong đó có vợ con cố ca sĩ Ngọc Tân.

Lúc đó em mới học xong phổ thông đang định thi Đại học thì bà già chả biết nghe ai xui quyết định cho con trai vượt biên tìm đường ‘cứu nước’ ( em nói cho vui chứ không có ý đồ chính chị chính em gì đâu nhé ) Nhà em ông bà già cán bộ công nhân viên quèn nên gia cảnh cũng chẳng khá giả gì. Em lớn nhất, dưới em còn 2 cậu em trai còn đang đi học.

Sau một thời gian chắp mối, em cùng ông anh họ được gửi về Đồ sơn, nhà một người bà con có quen biết và gần với 1 đường đây đưa người vượt biển. Đêm hôm đó, hai anh em được đưa tới điểm tập kết là 1 ngôi nhà nằm sâu trong xóm chài gần đê Bàng La. Đến nơi đã có khoảng 4 chục mạng cả già trẻ gái trai đang tụ tập ở sân nhà. Mọi người ai nấy đều thì thầm to nhỏ ra chiều căng thẳng lắm. Em cũng vứt ba lô hoà vào đám người không quen biết đấy. Hành trang của em chỉ có 2 bộ quần áo, ít lương khô, 1 chỉ vàng khâu kỹ trong cạp quần phòng khi cơ nhỡ.

Đến giờ xuất phát, theo hiệu lệnh của 1 đồng chí, tất cả bà con nối đuôi nhau men theo dọc con đê, người đi sau lặng lẽ bám đuôi người đi trước. Đường đê tối đen như mực, không một ánh đèn. Đi mãi rồi cuối cùng cũng đến nơi là một ngôi nhà giữa đồng không mông quạnh. Vào trong thì trời ơi, chắc phải đến hàng trăm người chen chúc bên trong. Thây kệ, mình cứ phải theo thôi chứ biêt sao bây giờ ?

Lại chờ đợi trong bóng tối. Thỉnh thoảng lại có tiếng xì xào bàn tán rồi lại im lặng chờ đợi.Bỗng đột nhiên có nhiều tiếng chân chạy rầm rập, ánh đèn pin loang loáng ở khắp xung quanh. Tiếng hô hét, kêu khóc hỗn loạn cả. Thế rồi cửa mở tung, các đồng chí công an, biên phòng, dân quân ập vào với vũ khí trên tay. Một đồng chí hô to: Ngồi im, tất cả đã bị bắt. Thôi, thế là đứt. Em và ông anh họ cùng mọi người bị đưa về đồn công an, hồi đấy còn là công an thị trấn Đồ Sơn. Đầu tiên tất cả bị nhốt vào 1 hội trường rộng trên tầng 2 sau đó từng người một bị dẫn đi lấy cung.

Không biết người khác thế nào còn em thì bị hỏi rất đơn giản: Ai là chủ tầu, ai đứng ra tổ chức và ai dẫn mối. Em thì đâu có biết ai chủ tầu chủ thuyền gì đâu mà khai, tất cả là do người bà con nhà em dẫn dắt, chả lẽ em khai ra thì liên luỵ người ta nên em cứ giả ngây giả ngô rằng em về Đồ Sơn chơi với người nhà thấy mọi người rủ nhau đi thì em cũng a dua a tòng đi theo thôi, chả biết gì hơn. Và em cứ dứt khoát như vậy bất kể bị đe doạ hay thế nào, em vẫn thống nhất với ông anh họ bảo vệ lời khai như vậy. Qua 2 ngày, bất lực với em, họ dẫn 2 anh em xuống giam ở buồng giam thật sự. Đến tận bây giờ em vẫn còn nhớ như in tiếng cái cửa sắt buồng giam khi đóng mở. Lần đầu tiên trong đời được biết thế nào là bị giam như một tội phạm, cảm giác khó tả lắm các cụ ợ.

Cửa phòng giam đóng sập sau lưng, chỉ còn ánh sáng le lói xuyên qua ô nhỏ trên cánh cửa sắt. Phòng giam em ngang chỉ độ 1m8 dài chừng hơn 2 m, có một cái bệ xi măng cao 10 cm chắc chỉ để nằm. Vẫn biết mình chỉ tội nhẹ nhưng nỗi lo sợ mơ hồ vẫn bao trùm trong em. Suốt mấy ngày đi cung, các chú CA vẫn chỉ xoay quanh mấy câu hỏi cũ nhưng em đã quyết nên dứt khoát không khai gì khác.

Thế là thấm thoắt đã một tuần kể từ hôm bị bắt, hôm đó em được dẫn lên phòng hỏi cung, có 1 chú đã ngồi sẵn hỏi em mấy câu vớ vẩn rồi đưa ra tờ giấy có tiêu đề: Giấy huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn bắt em ký vào. Em đọc sơ qua, chả hiểu gì vì từ bé đến giờ chỉ biết có đi học, đâu có va chạm pháp luật bao giờ đâu mà biết. Hoá ra đấy chính là cái giấy thả em. Chắc người nhà bên ngoài thu xếp, lúc đó em đoán vậy.
Đấy là lần vượt biên đầu tiên không thành của em.

Thế rồi em trở về nhà, cũng quá vài lần trục trặc nữa rồi gần 1 năm sau, cuối tháng 5/1989 em lại làm 1 tăng nữa. Qua mối lái, em lại vác ba lô hành trang xuống 1 cái xà lan chạy sông neo ở bờ sông dưới gầm cầu Niệm Nghĩa. Dưới xà lan đã có vài cậu thanh niên trạc tuổi em nằm sẵn đấy từ mấy hôm trước. Qua 1 đêm, sáng hôm sau xà lan nhổ neo chạy ra giữa vịnh Hạ Long nằm chờ. Đến khoảng 10h tối hôm đó 1 chiếc ca nô ( chính là loại ca nô chở khách Hải Phòng – Hòn Gai mà bây giờ vẫn gọi là tàu chợ các cụ ợ ) chở đầy nhóc người áp mạn xà lan rồi ào ào đổ người sang. Tất cả mọi người xuống nằm hết dước khoang rồi phủ bạt trùm lên. Xong xuôi đâu đó xà lan bắt đầu xuất phát nhằm hướng phao số 0 thẳng tiến.

Em xin mô tả sơ qua về phương tiện bọn em dùng để vượt biển cho các cụ dễ hình dung: Xà lan chuyên vận chuyển hàng hoá trên đường sông, trọng tải 70 tấn, có một máy chính công suất 70 mã lực ( số liệu này vì đã lâu rồi em không còn nhớ chính xác 100% chỉ biết lúc cao điểm nhất quân số trên tầu là 201 người ). Xà lan chạy sông khác xà lan hoặc ca nô chạy biển ở cái đáy tàu, loại chạy sông đáy bằng, loại chạy biển đáy vát nhọn để chém sóng. Xà lan có 2 khoang để chở hàng hoá, 1 ca bin lái, 1 buồng máy và đuôi tàu có 1 nhà vệ sinh cùng 1 bếp than to để nấu nướng.

Khi bắt đầu khởi hành, dưới khoang không còn 1 chỗ trống. Ngoài một số người độc thân, còn lại đa phần là cả gia đình vợ chồng chon cái, có cả những ông bà đã già cũng có cả những cháu bé chắc chưa đầy năm cũng được bố mẹ ẵm bồng đi vượt sóng đến nơi thiên đường sung sướng.

Chạy được nửa ngày, xa xa đã nhìn thấy ngọn đèn biển Long Châu, gần phao số 0, sóng gió bắt đầu nổi lên. Từng đợt sóng cuồn cuộn dọc theo 2 thân tàu. Đuôi tàu bọt biển trắng xoá quyện với màu nước biển xanh thẫm, xanh thẫm đến mức độ các bác cứ hình dung màu mực Cửu Long ngày xưa đi học như thế nào thì màu nước biển lúc đấy cũng tựa như thế. Biển động càng lúc càng dữ dội, từng sóng cao như cả toà nhà mấy tầng dựng lên trước mặt rồi lại hạ xuống rất nhanh, mưa gió tứ lung tung hoà quyện với nhau với tất cả sự khủng khiếp của nó. Đấy chính là bão biển. Trong cơn bão, thuyền trưởng chỉ đạo máy trưởng chạy hết tốc lực gối sóng thẳng tiến. Em xin giải thích thuật ngữ gối sóng nghĩa là đâm thẳng mũi tàu vào ngang con sóng (kiểu hình chữ T vậy) vì nếu để tàu quay ngang sẽ bị lật úp ngay lập tức. Mũi tàu hết ngóc lên rồi lại cắm đầu xuống. Mỗi lần hạ xuống, đáy tàu đập mạnh xuống nước tạo nên âm thanh giống như ta vỗ mạnh bàn tay xuống nước (tất nhiên là to hơn nhiều). Em tự nhủ chả biết thân tàu đến lúc nào thì gẫy gập. Ơn trời nó vẫn không sao. Mọi người dưới khoang kể cả em say sóng bét nhè, có bao nhiêu nôn thốc nôn tháo ra bằng hết. Các cụ thử tưởng tượng cả con tàu cùng hành khách phải chống chọi với sự cuồng nộ của thiên nhiên như vậy cả một ngày trời thì may quá, mây tan dần, gió bão cũng dịu đi. Em ngoi lên ca bin xem xét tình hình thế nào. Trong buồng lái thấy đặt một la bàn đi biển trên một rổ đựng gạo, em đoán chắc để lấy cân bằng cho la bàn. Sau khi kiểm tra, đo đo đạc đac, thuyền trưởng tuyên bố sau 24h, con tàu chạy hết tốc lực trong cơn bão vừa rồi vẫn nguyên ở vị trí xuất phát, nghĩa là gần phao số 0, chưa ra khỏi hải phận quốc tế. Sau này nhiều người có kinh nghiệm đi biển nói may mà máy tàu có công suất mạnh, nếu không đã dạt về tận Thanh Hoá rồi. Và con tàu lại tiếp tục cuộc hành trình lên đênh trên biển.Sau cơn bão, mọi người cũng quen dần với sóng gió và bắt đầu thấy đói. Nhà bếp mang cơm và thức ăn lên cho mọi người. Cơm có cá khô và canh bí là thực đơn của bọn em. Cơm do nấu vội nên vẫn còn sống nhưng vì cả ngày đói và mệt nên ăn vẫn ngon lành.

Đích tiếp theo của tàu em là cảng Phòng Thành, Trung Quốc. Tàu chạy chừng 1 ngày sau thì tới nơi. Cập bến, mọi người tản mát lên bờ còn tàu thì được kiểm tra máy móc dầu mỡ để chuẩn bị tiếp tục cuộc hành trình. Lên trên bờ, em theo nhóm bạn mới quen trên tàu đi vào phố. trong nhóm có 1 cậu có tài móc túi tuyệt giỏi. Hôm đấy gặp đúng dịp Trung Quốc bán lương thực thực phẩm kiểu như mình hồi bao cấp ý, người dân chen nhau xếp hàng mua bán. Cậu kia sau một hồi chen vào đám đông quay ra đã có ngay 1 sấp tiền, thế là cả hội đi đập phá, ăn uống bễ nhễ. Em lần đầu tiên được biết thế nào là mùi vị nước ngọt và đồ ăn chính hiệu Trung quốc. buổi tối quay về tầu thấy có cống ngốn (công an Trung Quốc) đến hỏi han, sau khi biết là thuyền Việt Nam vượt biên họ cũng chẳng gây khó dễ gì. Sáng hôm sau tàu nhổ neo nhằm hướng Bắc Hải tiếp tục hành trình. Đến Bắc Hải mọi việc cũng xuôn sẻ, không gặp trở ngại gì lớn.
Ai nhìn trên bản đồ cũng hiểu từ miền bắc VN muốn đến HK kiểu gì cũng phải qua eo biển Lôi Châu nằm giữa đảo Hải Nam và đất liền Trung Quốc. Đây là eo biển rất nguy hiểm vì là nơi giao nhau của mấy dòng hải lưu tạo nên những vùng xoáy chết người. Nơi đây chôn dấu không biết bao xác người tỵ nạn Việt Nam qua các thời kỳ suốt từ năm 1979 tới giờ, là địa danh nguy hiểm nhất trong cả quãng đường tới HongKong. Thông thường, người ta muốn qua đây phải thuê tài cống (lái tàu) người bản địa lái tàu vượt qua eo Lôi Châu thì mới mong sống sót. Tàu em cũng không phải ngoại lệ, sau khi bàn bạc, mọi người quyết đinh góp nhau 5 chỉ vàng thuê 1 tài cống đưa tàu qua eo rồi sau đó cập bờ, tài cống đó nhảy xe quay lại.

Sau khi mọi việc được sắp đặt đâu vào đấy, tài cống Trung Quốc cầm vô lăng và chúng em lại xuất phát từ cảng Bắc Hải nhằm hướng eo Lôi Châu lên đường. Sóng yên biển lặng trong suốt hơn một ngày đêm thì cũng thấy xa xa thấp thoáng là đất liền (trong cả hành trình, sang HK, trừ những lúc cặp bờ còn hầu như xung quanh chỉ có biển, chẳng nhìn thấy đất liền đâu). Mọi người bảo đấy là đảo Hải Nam đấy. Đuôi tàu thỉnh thoảng thấy nổi lên lưng của những con cá to đen sẫm bơi theo tàu. Người thì cam đoan đấy là cá mập, người bảo không phải, chỉ là một loại cá to nào đấy mà thôi. Đôi lúc cũng nhìn thấy hình như là tầu ngầm Trung Quốc thì phải, em cũng không chắc lắm nhưng rõ không phải là những tàu dân sự bình thường. Đi một đoạn nữa, đột nhiên nhìn rõ những cột buồm nhô lên lập lờ dưới mặt nước biển xanh thẫm, mọi người chợt lặng im vì hiểu rằng đấy chính là những tàu vượt biên Việt nam xấu số bị chìm mang theo biết bao sinh mạng của đồng bào bỏ xác nơi đất khách quê người. Cầu mong cho linh hồn của họ được siêu thoát.

Tàu chạy tiếp tục trong sóng yên biển lặng, em và mấy người nữa leo lên nóc ca bin tàu nằm hóng mát. Em tự nhủ hoá ra tàu mình cũng may mắn, tưởng nguy hiểm thế nào chứ thế này thì cũng chẳng có gì ghê ghớm. Trời vẫn quang, mây vẫn tạnh, sóng biển nhè nhẹ, bọn em ngêu ngao mấy bài nhạc vàng ra chiều yêu đời lắm. Trời tối dần, bóng đêm bắt đầu phủ xuống thì đột nhiên có tiếng ông thuyền trưởng Việt nam quát to bắt mọi người xuống hết hầm boong. Em cùng mọi người nháo nhào lao xuống theo hiệu lệnh thuyền trưởng. Nằm dưới hầm boong chỉ thấy mưa, gió quay cuồng một chập chừng 1 tiếng rồi đột nhiên im phăng phắc. Một lát sau, ông thuyền trưởng vén bạt gọi mọi người lên nói mình vừa thoát chết. Chẳng ai hiểu mô tê gì cho đến khi ông thuyền trưởng kể lại rõ ngọn nghành.

Theo lời ông ấy kể: tàu đang đi trong điều kiện thời tiết hết sức lý tưởng, tài cống TQ đang cầm vô lăng,không biết nhìn mây trời có dấu hiệu gì bất thường đột nhiên la hét ầm ĩ một hồi rồi buông tay ngồi thụp xuống ôm đầu. Ông thuyền trưởng Việt Nam biết là có vấn đề nghiêm trọng nên ra lệnh mọi người xuống hầm boong. Ngay lập tức sau đó mưa gió nổi lên rất đột ngột. Ông thuyền trưởng Việt Nam đạp tài cống TQ sang một bên và cầm vô lăng chèo lái con tàu trong tuyệt vọng với ý thức: còn nước còn tát. Ông hiểu rằng người tài cống TQ thổ công thổ địa còn buông tay chịu chết có nghĩa là tình thế vô cùng nghiêm trọng. Chỉ 1 tích tắc, theo lời ông thuyền trưởng, ông ấy không tin vào mắt mình: con tàu quay ngoắt 180 độ lúc nào không hay. Rồi sau đó chẳng hiểu có phép màu nào mà tàu em lại thoát được, chắc do tàu mình được Trời Phật phù hộ độ trì, chưa phải đến ngày tận số. Sau này nghĩ lại mới biết chắc tàu đi vào đúng đường đi của 1 cơn lốc biển.

Cuối cùng cũng vượt qua được eo biển tử thần, tàu cập vào một cảng nhỏ em không nhớ tên để ông Tài Cống TQ lên bờ đồng thời tàu cũng bổ xung dầu mỡ, xem lại máy móc. Mọi người tản mát lên đất liền đi kiếm lương thực thực phẩm. Em cùng mấy người bạn đi xin ăn, học được mấy câu tiếng Tàu: pỉ ngổ tí xỉn (cho tao ít tiền), pỉ ngổ tí mẩy (cho tao ít gạo) thế mà cũng được một ít. Hôm đấy thằng bạn ra chợ mắt trước mắt sau thó nhể (ăn cắp) được mấy quả tim lợn, vặt trộm được mấy quả bầu mang về nhà dân gần đấy nấu nhờ. Cả bọn được bữa no không đi nổi. Các cụ có tưởng tượng được 5 thằng mà ăn hết 6 bát gạo đầy không, chắc đời em chưa bao giờ ăn khoẻ như vậy.

Lại nói về ăn xin, nói thật, em vẫn ấn tượng về lòng tốt của người dân TQ. Hồi đấy thấy nông thôn TQ cũng chẳng khá hơn mình bao nhiêu nhưng họ sẵn sàng giúp đỡ dân tị nạn VN, có điều dân mình qua đất nước họ ăn cắp ăn trộm đủ cả, về sau họ cũng ghét. Có lần, em với thằng bạn đói quá, 2 thằng bàn nhau vào ăn chạc. Thế là 2 thằng đánh liều vào 1 quán vỉa hè như của mình vậy, ăn xong 2 thằng nháy nhau chạy thật nhanh về 2 phía khác nhau, ông chủ quán tức quá dẫm chân bành bạch, kêu ầm ĩ nhưng cứ loay hoay chẳng biết đuổi thằng nào. Có lần khác, cũng lại đói quá em đánh liều đi ăn cắp cái gì đó để ăn. Vòng quanh chợ mấy lần chỉ thấy có sạp bán dưa hấu là dễ lấy, dưa hấu chất cao như núi mà chả thấy chủ quán đâu. Dằn dứ mãi vì em chưa đi ăn cắp bao giờ, nhưng đói quá nên xông vào bê 1 quả chạy ra chỗ kín dùng đá đạp vỡ ra ăn.Thế mà cũng ăn hết, ăn xong thì mẹ ơi, cái bụng căng lên như 1 cái trống, óc a óc ách lạ lắm các cụ ợ.

Thế rồi con tầu lại tiếp tục lên đường. Vậy là chỉ còn 1 nửa chặng đường phía trước. Chả biết còn gian truân thử thách gì đang chờ đợi phía trước đây.

Đi được mấy hôm lại có dấu hiệu có bão, tàu đành quay đầu vào bờ tránh bão. Đến gần bờ, thấy dân thuyền chài địa phương cứ chỉ chỉ cái gì trước mặt, thuyền trưởng bảo 1 bà trước đây nhà ở phố Kỳ Đồng (trước kia có nhiều Hoa Kiều sinh sống) biết 1 ít tiếng Hoa ra xem họ nói gì. Sau khi nói chuyện với họ 1 hồi, bà ấy bảo họ nói đi vào luồng vừa chỉ ý. Thế là yên tâm rồi. Đi một đoạn thì bỗng nhiên : kịch kịch, két két, tàu đứng khựng lại. Mọi người nhao nhao lên: va phải đá ngầm rồi. Ai đó lấy cây sào ra chống thử thì đúng là đá ngầm thật. Hoá ra ngư dân họ biết tàu Vn nên cảnh báo chỗ đấy có đá ngầm không nên đi vào đấy thì phiên dịch lởm của mình lại phán ngược lại. Thế là lại phải chờ nước lên rồi nhờ tàu TQ kéo vào xưởng sủa chữa. Về đến xưởng thì mới biết tàu gãy hết cả chăn vịt, bay mất tiêu cả bánh lái. May mà lúc đó nước lên chứ nước xuống thì lại lật tàu, chắc chết đuối cũng tương đối.

Đêm hôm đó bão về, tất cả mọi người lên 1 đảo cát có rất nhiều cây phi lao gần đấy tránh bão. Hoá ra đấy là 1 bãi tha ma các cụ ợ, nhưng cũng chẳng có chỗ nào khác, đành chịu vậy. Mọi người dùng tất cả những gì kiếm được để che mưa che gió nhưng vẫn không ăn thua. Cả đêm chịu gió, rét, ướt như chuột lột. Một thanh niên không biết bơi ra bơi vào thế nào bị nước cuốn trôi, thế là 1 nhân mạng đã ra đi.

Bão tan, tàu chuẩn bị khởi hành thì có một nhóm người ở một tàu khác xin đi nhờ vì thuyền vỡ. Kiểm tra tổng quân số cho chặng cuối cùng là 201 người. Tàu lại ra khơi, tiếp tục cuộc hành trình. Một hôm, em đang ngủ, người bạn lay dậy bảo: sắp đến HongKong rồi. Em sướng quá leo ngay lên mũi tàu để xem. Đúng thật, xa xa là đất liền kia rồi, thiên đường là đây chứ ở đâu? Cuối cùng sau bao gian truân, nguy hiểm, mình cũng đã thành công. Mặt biển xanh lăn tăn vài con sóng nhẹ, thời tiết tuyệt đẹp như đón chào con tầu đến với chân trời mơ ước. Cha mẹ ơi, cái gì thế kia??? Có cái gì lao như bay trên biển, càng đến gần nhìn càng giống 1 chiếc thuỷ phi cơ, có cảm giác nó nhấc hẳn thân trên mặt nước. Về sau mới biết đấy chính là tàu cao tốc chạy tuyến HongKong – Macao các cụ ạ. Mọi người phấn khích hẳn lên, bàn tán xôn xao. Em cũng thế, hình như bao mệt nhọc bay biến tù lúc nào. Một chú lớn tuổi có vẻ hiểu biết cam đoan rằng bên này bà con sang đâu được ăn uống sướng lắm, toàn đò tây không à, ăn xong toàn lát xê quả lê quả táo chứ không tráng miệng vớ vẩn như ở Vn. Ừ thì cũng phải thế chứ, bõ công đánh đổi mạng sống của mình chả lẽ lại vẫn cơm mì cơm độn hay sao. Thế là sau 21 ngày đêm, em cũng đến được HongKong, hôm đấy là ngày 19 – 6 – 1989, một ngày không bao giờ quên trong đời em.

Phần 2: Hongkong, những ngày đầu.
Được một lúc, có 3 cái tàu màu xám, bên sườn sơn chữ HONGKONG ROYAL POLICE lao ra vây quanh tàu em. Đứng trên mạn thuyền là bọn cảnh sát, thằng nào cũng phải cao cỡ 1m8, quân phục cực kỳ đẹp, trắng trẻo, đẹp trai với kính Rayband, mũ be rê gài trên cầu vai, phải nói là vô cùng ấn tượng. Tàu em được kéo đất liền. Càng vào gần, em nhận ra hình như đây là 1 cái đảo lớn có đồi núi, cây cối, lán lều với nhiều người đi lại. Phải có đến mấy trăm thuyền bè đậu đầy mép nước. Có nhầm không nhỉ? Chả lẽ đây là HongKong đây sao? Không ai bảo ai, mọi người trầm hẳn xuống, im lặng chờ đợi. Lên cầu cảng, họ cho lần lượt từng người lên rồi khai sơ bộ tên tuổi, địa chỉ ở Vn, đi với ai .v.v. rồi tập trung ở 1 chỗ. Sau đó họ phát cho một số nhu yếu phẩm cần thiết như khăn mặt, xà phòng, bàn chải đánh răng .v.v. với 1 cái phiếu để hàng ngày lên lĩnh đồ ăn sau đó mọi người tuỳ nghi di tản, tự tìm chỗ tá túc trên đảo. Chỉ có thuyền trưởng ở lại họp vói họ rồi quay về cho bọn em biết số tàu của mình là 432, mọi người tự lo cho đến khi có thông báo mới, ai có nhu cầu viết thư thì có thể nhờ cha đạo ra ngoài HK gửi hộ. Chỗ sinh hoạt của bọn em là tự tìm những cái lán mà ở, có lẽ trước đây những cái lán này dùng để nhốt bò. Tiêu chuẩn mỗi người mỗi ngày 1 hộp sữa đặc, 1 hộp cá, 1 hộp đậu Hà lan, 1 gói bánh quy. Lúc đầu ok nhưng chỉ sang đến ngày thứ 3 là ngấy lên đến tận cổ. Nhiều người bắt đầu có dấu hiệu rối loạn tiêu hoá do không quen thức ăn. lại nói về sinh hoạt trên đảo, ngủ và sinh hoạt thì như vậy, tắm thì xuống biển, vệ sinh leo lên đồi cao. Nắng thì còn đỡ chứ nếu mưa, chất thải chảy xuống xú uế vô cùng. Có những người đến nơi chỉ còn 1 quần đùi, 1 áo khi tắm xong mặc nguyên quần áo ướt chờ khô. Thuốc lá thuốc lào cạn dần, bắt đầu là của hiếm. Các anh chị đầu gấu bắt đầu ra tay cướp bóc của những ai có của nả mang từ VN sang. Nói chung an ninh rất hỗn loạn. Em thì không được tận mắt nhìn thấy nhưng có nghe nói về nạn hiếp dâm, đâm chém giết chóc trên đảo. Bọn em mấy anh em độc thân sống quây quần bên nhau, ngoài lúc ăn ngủ thì đi lang thang chơi, bắt tóp thuốc lá thuốc lào sống qua ngày.

Thế rồi hơn 20 ngày cũng trôi qua, một sáng thuyền trưởng đi khua hết các lều có người của thuyền 432 bọn em ra tập trung để chờ chuyển trại mới. Lần này là 1 trại nằm trên 1 hòn đảo nhỏ có tên là đảo Thanh Châu. Vào đây, bọn em từng người một được phun từ đầu đến chân một loại dung dịch màu trắng, có lễ là để tẩy uế, khử trùng. Đến bữa trưa và bữa tối được phát cơm hộp với đồ tráng miệng là cam Califolia hẳn hoi, buổi sáng có bánh mỳ lát và sữa tươi. Ai trên 21 tuổi còn được mỗi ngày 3 điếu thuốc lá về sau bọn em đặt tên là thuốc trại. Sau bao nhiêu ngày không được ăn cơm, từ xa đã ngửi thấy mùi thơm phức các cụ ạ.

Ở Thanh Châu được 3 ngày họ lại chuyển bọn em ra phao nổi. Gọi là phao nổi nhưng thực chất là cái phà biển 2 tầng trứ danh của HongKong nhưng chắc là quá date neo ở 1 hòn đảo nhìn thẳng ra vịnh Victorya tráng lệ. Bọn em được xếp ở tầng 1 của cái phà đấy. Buổi tối nhìn sang Hongkong đèn đuốc lung linh. Hongkong hình như không ngủ, đèn sáng cả đêm. Cũng có người ôm can liều mình bơi sang bờ bên kia chơi rồi quay lại. Bọn em ở đấy còn được chiêm ngưỡng rất nhiều những con tầu du lịch trắng tinh đi dọc ngang trong vịnh, lại có cả những con tàu 2 thân, lần đầu tiên trong đời được thấy tận mắt. Rồi biết bao những con tàu container vĩ đại chắc phải đến hàng trăm ngàn tấn ra vào như mắc cửi. HongKong có cách giải phóng hàng không giống mình, khi có tàu hàng vào, neo luôn ở giữa biển, sau đó có hàng chục cái bông tông nổi có sẵn cần cẩu ra áp sát vào tàu to rồi bốc hàng xuống chở đi rất nhanh, không cần chờ cập cầu tàu như mình. Phải nói dân tị nạn mình bẩn thật, ăn xong vất luôn vỏ hộp cơm hộp bằng xốp xuống trắng xoá cả mặt biển.

Phao nổi em có 2 kỉ niệm nhớ đồi, một lần, buổi chiều thấy bọn cảnh sát bê vào phòng rất nhiều hộp to hộp nhỏ, tưởng đò ăn, tối đến em đánh liều lẻn vào ăn trôm, về đến nơi hí hửng mở ra, hoá ra là nguyên một hộp thìa nhựa. Kỷ niệm thứ hai là em có bọc thuốc lào, bộn đầu gấu xin đểu, em nhất định không cho. Thế là bị 1 trận lên bờ xuống ruộng, uất ức nhưng chẳng làm gì được, thân cô thế cô mình cũng phải chịu nhịn.

Ở được gần chục hôm thì được đi tránh bão ngay dưới tòa nhà Ngân hàng HSBC nổi tiếng, ngay bên cạnh bến phà cao tốc Hongkong-Macao. Ở phao nổi được gần một tháng thì tàu em chuyển vào trại có tên là Argyle Street tiếng Tàu gọi là Akai Lẩu Cái với số thẻ cá nhân là 654.

Để em nói rõ về vấn đề người tị nạn ở Hongkong cho các cụ hiểu rõ chút. Sau sự kiện người Hoa năm 1979, làn sóng vượt biên nổi lên những năm sau đó. Miền Nam thì chủ yếu chạy sang Thái Lan, Indo, Malay, Sing…miền Bắc thì sang Hongkong. Trước lượng người vượt biên sang HK ngày càng tăng, Cao ủy tị nạn LHQ viết tắt là UNHCR đề ra 1 cái mốc là 16/6/1988 ai đến trước ngày này sẽ được nghiễm nhiên chờ ngày được các phái đoàn của các nước (gọi là nước thứ 3) phỏng vấn, nếu được ok sẽ được sang định cư ở nước đó. Ai đến sau 12h đêm ngày đó sẽ bị mặc nhiên coi là tị nạn kinh tế, sẽ bị giam giữ trong trại cấm, có nghĩa là trại đóng cửa, không được ra bên ngoài. Tuy nhiên sau đó tất cả sẽ được tiếp kiến phái đoàn Cao ủy tị nạn LHQ thanh lọc, nếu chứng minh được mình là tị nạn chính trị sẽ được sắp xếp ra ngoài trại mở (bọn em gọi là trại tự do) như những người đi trước mốc để chờ đi nước thứ 3. Nếu khô g chứng minh được lần đầu, bạn có quyền kháng án 2 lần nữa mà vẫn không được công nhận là tị nạn chính trị (bọn em gọi là ăn một hoặc 2 cánh gà) thì bạn sẽ bị giam giữ tiếp tục và chờ ngày bị cưỡng bức trở về VN. Bạn cũng có thể lựa chọn phương án tự nguyện hồi hương để được tham gia các chương trình tái hòa nhập cộng đồng của LHQ dành cho thuyền nhân Vn hồi hương tự nguyện. Em cũng không nhớ chính xác lắm vì lâu quá rồi, hình như mỗi người được 350 USD (hay 700) ngoài ra còn được vay tiền ưu đãi do EC tài trợ.

Lại nói về mốc 16/6 đau nhất là nghe nói có thuyền chỉ đến sau mốc có mấy tiếng mà phải ngậm ngùi vào trại cấm. Em thì đến chậm so với mốc đúng 1 năm 3 ngày nên chẳng ân hạn gì.

Trại Argyle Street trước kia là 1 trại lính, được chia làm 5 buồng, mỗi buồng chứa được khoảng 500 người. Để các cụ dễ tưởng tượng, hình dáng của các buồng đó hình vòm giống như cái nhà hangar của sân bay, bên trong kê các tấm gỗ ván để sát nền nhà. Bên trong mỗi buồng có 1 tivi, 2 buồng tắm công cộng cho nam và nữ. Giữa 2 buồng là dãy nhà toilet, sân phơi quần áo, trước buồng là một khoảng sân. Cả trại có trường học, nhà y tế, văn phòng…. Xung quanh trại được ngăn cách với bên ngoài bằng hàng rào sắt với dây kẽm gai cùng các bốt gác của cảnh sát.

Ngày nhập trại, mỗi người được phát các vật dụng cần thiết như: quần áo ( giống như quần áo hàng đống ở nhà ), chậu nhựa, ca nhựa, bát, thìa, chăn, dép, khăn mặt, bàn chải đánh răng, thậm chí mỗi người còn được 1 bộ bài tây để giải trí… Em được phân về buồng 3, số thuyền 432, số thẻ 654 (giống như số tù vậy).

Hàng ngày, mỗi người mang thẻ ra xếp hàng lĩnh 3 bữa ăn, sáng có bánh mỳ và sữa tươi, trưa và chiều thì có cơm và thức ăn thay đổi theo ngày. Một tuần được lĩnh 3 quả cam, giấy vệ sinh, xà phòng, khăn mặt, thuốc lá (chỉ phát thuốc lá cho những người trên 21 tuổi không phân biệt nam, nữ). Trẻ em được đi học, ai có nhu cầu khám bệnh được đáp ứng đầy đủ, nói chung cuộc sống tạm ổn.

Tivi thì có 2 kênh tiếng tàu và 2 kênh tiếng Anh, trong đó có 1 kênh ATV và 1 kênh TVB mà các cụ ở nhà mình hay xem phim bộ đấy ạ, phát 24/24 luôn. Thực lòng mà nói, cuộc sống ở trại cấm HK em đánh giá còn phức tạp hơn cuộc sống trong tù ở VN mình bởi lẽ môi trường tù chỉ có dân anh chị với nhau, còn ở đây thì đủ hết: trí thức có, lưu manh, đầu trộm đuôi cướp có, dở dở ương ương cũng có, nói chung là đủ hết.

Vào trại một thời gian ngắn đã bắt đầu xảy ra vài vụ đánh nhau, đâm chém, tranh giành số má. Các cụ nghĩ mà xem, con người ta trong hoàn cảnh bị giam hãm, tù túng nên tâm tính có lẽ cũng cục cằn hơn bình thường. Bản thân em có lần vì va chạm trong lúc lấy cơm cũng nổi điên đánh nhau, bị cảnh sát (bên này gọi là a Sề vì có lẽ xuất phát từ chữ sir trong tiếng Anh). Ở đây, có lẽ quý nhất là chè tầu, thuốc lá và đặc biệt là thuốc lào. Các cụ có thể tưởng tượng được không, một mồi thuốc lào có khi chia 5 xẻ 5 đúng nghĩa đen của nó. Điếu cày được các nghệ nhân chế tác từ các loại vật liệu có thể tạo nên được, đun nước bằng lon sữa, củi thì người ta xé sợi chăn ra rồi đốt cháy ca nhựa, chậu nhựa nhỏ lên. Thậm chí bí quá, có người còn biểu diễn đun nước sôi nước đựng trong túi nilon (cái này nghe rất khó tin nhưng có thực).

Chủ nhật, trại cho những người ngoài tự do (thường là những người đi trước mốc 16/6/1988) được phép vào thăm thân nhân rồi gửi quà. Bắt đầu hình thành các băng nhóm bắt đầu đánh nhau để lấy số má, từ đó xin đểu, trấn cướp đồ dùng, quà cáp và những tài sản quý của những người có thân nhân ngoài tự do. Ai muốn yên thân thì ngoan ngoãn cống nạp, nhưng cũng có những người không chịu chấp nhận, thế là những trận chiến đấu xuất hiện. Vũ khí được tạo bởi tất cả những gì có thể: dùi sắt, lập là, bàn chải đánh răng mài nhọn…. Ở trại em ở như thế vẫn chỉ là đánh nhau nhỏ lẻ, thấy nói ở các trại khác, mức độ tàn khốc còn cao hơn nhiều, có thể so sánh như trong truyện Tam Quốc vậy. Lúc khác em sẽ kể chi tiết về chủ đề này cho các cụ nghe.

Em thì chả có thân thích gì ngoài tự do nên tài sản chẳng có gì ngoài những đồ trại phát. Thuốc lá thì hút ké của mấy anh ở cùng vì hôif đó em chưa đủ 21 tuổi nên không có tiêu chuẩn. Cảnh đi xin xỏ thì luôn tủi nhục, nhưng biết sao bây giờ? Một thân một mình nơi đất khách quê người giữa chốn ba quân thì phải chấp nhận mà tồn tại.
Ai ở trại Akai hồi đó đều biết chị thư ký văn phòng trại tên a Quay (tên Việt nam là Quý). Đến tận bây giờ em vẫn còn nhớ như in giọng nói và ngoại hình của a Quay. A Quay là một người Việt gốc Hoa, vượt biên xuất phát từ Sài Gòn, dáng người nhỏ bé, 2 mắt kính cạn choán hết cả khuôn mặt. Do khả năng đọc thông viết thạo cả 2 ngôn ngữ nên được cất nhắc là thư ký văn phòng. Một hôm, thấy trên loa giọng a Quay thông báo trại trưởng mời những ai biết điêu khắc lên gặp. Nhờ hồi đi học cũng có tý hoa tay vẽ vời hoa lá cành nên đánh liều cùng anh bạn thân tên Bảo lên phỏng vấn. Không ngờ qua kiểm tra, cả 2 thằng cùng được nhận đi làm mà làm sao cả trại chỉ 2 thằng được nhận, sướng thế. Thế là được chụp ảnh, làm thẻ và đi làm, hàng tuần lĩnh lương. Hóa ra đồng lương đầu tiên trong đời lại được lĩnh ngoại tệ. Công việc cũng chẳng có gì ghê ghớm, đấy là khắc tượng nổi trên những cái cốc đặc bằng thạch cao. Thế mà bọn em được trọng vọng ra phết. Cuộc sống được cải thiện, có tiền mua thuốc lá, chè tàu, hạnh phúc giản dị mà sung sướng vô cùng các cụ ạ.

Vào trại được mấy hôm thì bắt đầu có những cuộc trốn trại ra bên ngoài tự do. Lúc đầu còn lác đác, sau thì ngày càng nhiều người trốn. Ra ngoài kia nếu có người nhà ở trại tự do thì có thể ở nhờ rồi kiếm chứng minh thư giả để xin việc hoặc đi ăn cắp, cướp dây chuyền vàng, móc túi…nếu bị cảnh sát bắt vì tội ăn cắp hoặc cướp thì tất nhiên bị ra tòa xử tù, còn nếu bị bắt vì tội trốn trại không thì chỉ bị bắt đưa về trại, ở sổ ky (giống như đi kỉ luật ở nhà tù Việt nam) mấy hôm rồi về buồng. Hồi đấy mấy người trốn trại bị bắt về, con người như lột xác: đầu uốn xoăn (hồi đấy chưa có phong trào nhuộm tóc như bây giờ) đi giầy thể thao cao cổ – mốt lúc bấy giờ bên Hongkong, cổ và tay lủng lẳng dây chuyền, lắc vàng.v.v. được bà con ngưỡng mộ lắm. Ban đầu em cũng không có ý định trốn vì nghĩ mãi chả ra ai thân thích ngoài kia mà hi vọng nhờ vả, sau phần vì bạn bè rủ rê, phần vì khao khát tự do, khao khát được hòa mình với cuộc sống thiên đường chỉ cách mình hàng rào sắt nên em quyết định trốn trại.

Thời gian em quyết định trốn là lúc có nhiều người trốn nên bọn cảnh sát gia cố hàng rào kinh lắm, trốn thoát được vô cùng khó chứ không dễ như thời gian đầu. Để em tả qua về cái hàng rào em phải vượt qua để các cụ dễ tưởng tượng: Hành rào lưới sắt cao khoảng 8 , 9 mét, chân hàng rào được hàn kín bằng tôn để không có kẽ hở bám vào để trèo. Từ trên đỉnh hàng rào xuống có khoảng 6 vòng dây thép gai, chưa kể chòi canh của cảnh sát cách 1 đoạn lại có 1 cái. Ngoài hàng rào là bãi tập kết vật liệu của 1 công trường xây dựng. Hôm đó vào tầm 3h chiều, nhóm trốn của bọn em có 3 người cả thảy. Chờ cho thằng cảnh sát ở chòi gác đi tuần ra hướng khác, những người bạn ở nhà công kênh bọn em lên rồi bằng mọi cách chui luồn thật nhanh qua mấy tầng dây thép gai nhẩy ra bên ngoài trước lúc thằng cảnh sát kia quay lại. Đến giờ 2 bên cánh tay em vẫn còn mấy vết sẹo, dư âm của cuộc đào thoát ngày đấy. Còn một chi tiết đáng nhớ nữa là để gọn nhẹ và đỡ vướng vào dây thép gai, bọn em khi trèo thì đi chân đất và mặc quần đùi, khi ra đến ngoài thì anh em bên trong sẽ lựa lúc thuận lợi ném giầy, quần áo qua hàng rào cho bọn em. Lúc ném xong, quần áo thì ok, còn giầy thì chẳng biết văng đi đâu, em chỉ thấy 1 chiếc. Đang loay hoay thì may quá vớ được một đôi giầy kiểu như bảo hộ lao động, có lẽ là của 1 ông công nhân nào vứt lại, em đi vào và thế là lại tiếp tục 1 cuộc phiêu lưu mới.

Mấy anh em lếch thếch đi xuyên qua công trường xây dựng để ra đường bắt xe bus về trại tự do. Lần đầu đặt chân trên phố của Hongkong, chao ôi là choáng ngợp, hai bên đường toàn nhà cao tầng. Kể thế bây giờ có khi có cụ phì cười nhưng quả thật thời đó đất nước ta còn nghèo nàn lạc hậu lắm, em cứ cảm giác mình như người rừng lên phố vậy. Nghe theo kinh nghiệm của những người trốn trước truyền lại, bọn em cứ cắm đầu đi thẳng, có gắng không nhìn ngang nhìn dọc để tránh bị phát hiện là mấy thằng trốn trại. Theo đúng lịch trình là ra ngoài đường tìm đến bến trạm xe bus gần đấy bắt xe 2a đi đến Shamsuipo rồi đi sang đường bắt tiếp xe bus số 59a để về trại 46 (tên một trại tự do). Chặng đầu suôn sẻ, đến Shamsuipo bọn em đang loay hoay tìm đường sang bên kia thì đột nhiên một nhóm người mặc thường phục vỗ vai bọn em rồi rút thẻ nói xì xà xì xồ một tràng em chẳng hiểu cái gì. Em giật mình, thôi bỏ mẹ, gặp bọn súy rồi (CID – cảnh sát mật HK), đen thế, vừa lóp nghóp trốn ra được mấy tiếng đã bị bắt. Đúng thật cảnh sát mật các cụ ạ, chúng nó thấy bọn em lớ nga lớ ngớ nên kiểm tra chứng minh thư, mà chứng minh thư thì bọn em làm gì có. May sao sau một hồi khám người bọn em thấy không có gì, bọn nó vẫy tay cho đi. Sau này những người có kinh nghiệm nói bọn kia chắc tháng đấy đủ kế hoạch nên chúng nó không thèm bắt mấy thằng trốn trại, hóa ra bọn tư bản cũng được giao kế hoạch giống ta nhỉ. Bọn em như chết đuối vớ được cọc tiếp tục hành trình lên xe 59a thẳng tiến trại 46.

Trên con đường bôn ba của cuộc đời, đôi khi vô tình ta gặp những người tốt với ta trong những lúc khốn khó mà chả biết bao giờ gặp lại để mà trả ơn hoặc chí ít cũng để nói lời tri ân. Em may mắn sao gặp được nhiều người như vậy các cụ ạ. Trên chuyến xe bus số 59a về trại 46, em nghĩ ra một cách để ngụy trang mình như là người bản xứ bằng cách cầm tờ báo tiếng tàu ai đó vứt lại trên xe giả vờ đọc chăm chú. Bỗng nhiên em thấy thằng cha bên cạnh cứ nhìn mình chằm chằm, em chột dạ, hay là lại gặp cảnh sát chìm? Mặc kệ, em cứ làm như không biết, vẫn mải miết đọc. Được một chốc, bỗng người đàn ông ấy ghé vào tai em nói nhỏ: thôi thôi, ông vứt mẹ nó tờ báo đi, nhìn qua ông tôi biết ngay mới trốn trại ra đúng không?
Hú hồn, hóa ra người Việt, em vội trả lời: vâng, mấy anh em em mới trốn ra đang tìm đường về trại 46 tìm người nhà anh ạ.
Anh ấy bảo:
– anh bảo này, lúc nãy anh đi qua đây nên biết phía trước bon cảnh sát đang dừng xe kiểm tra chứng minh, lát xuống bến gần đây mấy thằng theo anh dẫn qua chỗ đấy.
Em trả lời:
– vâng, có gì anh giúp bọn em nhé
– cứ yên tâm, để anh giúp.
Thế rồi xuống trạm tiếp theo, xuống xe, anh ấy gọi taxi rồi kêu cả bọn lên cùng.

Đúng thật, đi một đoạn thì có đèn xe cảnh sát nhấp nháy xanh đỏ trước mặt. Cảnh sát dừng tất cả các xe lại kiểm tra chứng minh, kể cả xe bọn em. Ngồi trên xe, bọn em thằng nào thằng đấy mặt xanh như *** nhái, có lẽ lúc bấy giờ trời nhập nhoạng tối nên không bị phát hiện. Anh kia bình tĩnh đưa chứng minh rồi nói gì đó bằng tiếng tàu với cảnh sát một hồi. Hồi đó em chưa biết tiếng nên chẳng hiểu 2 người nói gì. Một lúc cảnh sát xua tay cho xe đi, cả bọn thở phào nhẹ nhõm. Lâu quá chẳng nhớ về sau anh ấy nói lý do gì mà bọn cảnh sát cho qua không kiểm tra chưng minh bọn em. Xe đi gần đến trại thì anh ấy kêu tài xế dừng xe rồi anh ấy còn xuống tận tình chỉ:
– mấy đứa băng qua đường rồi trèo qua cái hàng rào thấp chỗ kia mà vào trại, đừng vào cổng chính, sợ cảnh sát nó bắt đấy. Thôi anh đi nhé.

Bọn em líu ríu cám ơn, xe đi một hồi mới nhớ ra quên bẵng mất chẳng hỏi tên ân nhân của mình.

Chui vào trại, em tìm đến mấy căn phòng bỏ hoang không ai ở. Mấy ngày lang thang trong trại hi vọng kiếm người quen mà không thấy ai, mấy đồng tiền ít ỏi lận lưng cũng cạn dần. Được mấy hôm, hết hi vọng, em đi nhờ taxi một người quen cũng là dân trốn trại về Tuen Mun (tên một trại tự do khác của người Việt tị nạn). Vào trại này khó hơn vào trại 46, để tránh bị cảnh sát gác cổng (trại 46 không có cảnh sát gác cổng) em phải đi vòng ra sau trại rồi trèo rào để vào. Lại đi các buồng tìm người quen và kết quả cũng vẫn thế, chả có ai quen. Đơn độc, hết tiền, không nơi nương tựa…may vớ được mấy cậu em đồng cảnh ngộ nên cũng cảm thấy đỡ cô đơn. Đúng như các cụ nói, đói ăn vụng, túng làm liều, ban ngày cả bọn lang thang ra chợ ăn cắp đồ ăn sống qua ngày, đêm về ngủ vạ vật trên nóc nhà trong trại. Dân tị nạn Việt nam mình bên đấy ngoài những người tử tế đàng hoàng xin việc đi làm thì phần còn lại nhất là những thành phần nghiện ngập thì kiếm sống chủ yếu là móc túi, cướp dây chuyền… Một lần, túng quá, mấy cậu em kia bàn đi cướp dây chuyền. Hôm đấy, trên một con đường vắng, phát hiện một phụ nữ địu con nhỏ trước ngực đeo một cái dây chuyền vàng khá to, một cậu lao vào giật. Người phụ nữ nọ sợ quá kêu không ra tiếng, cứ ú ớ trong cổ họng. Dây chuyền đứt rồi nhưng cái khóa dây lại giắt vào cổ áo, cậu kia giật mấy phát vẫn chưa tuột ra, cậu ta bèn đạp cho người phụ nữ cùng đứa nhỏ địu trên người ngã giúi dụi vào bụi cây. Cướp được cái dây chuyền mang về trại bán được ít tiền, cả bọn sống no đủ mấy hôm. Cảnh tượng người phụ nữ cùng đứa con nhỏ bị bọn em cướp vẫn ám ảnh em đến tận bây giờ các cụ ạ. Ở Hongkong vàng hoặc kim cương .v.v. không có giấy mang ra hiệu kim hoàn bán họ không mua các cụ nhé nên phải bán qua đầu nậu, giá có lẽ chỉ bằng phân nửa giá vàng có giấy.

Sống vậy được ít hôm, em chán quá nên tìm đường mò về trại Kai Tak. Trại Kai Tak là trại tự do, nằm ngay gần sân bay cũ của Hongkong. ở đây đa phần là dân vượt biên từ những năm 1979, do nhiều lý do khác nhau mà họ chưa được định cư ở nước thứ 3 mà hầu hết là do bị dính án (ăn cắp, cướp…). Vì ở lâu nên họ nói tiếng tàu rất giỏi, thậm chí giao tiếp hàng ngày với nhau cũng dùng tiếng Hoa.

May quá, về đây em gặp được mấy người bạn cùng thuyền, cùng trại cấm trốn ra ở đây cho em ở nhờ. Vậy là đỡ cái cảnh ngủ bờ ngủ bụi, cơm đường cháo chợ. Bạn em ra lâu rồi nên thửa được chứng minh giả và kiếm được việc làm. Chứng minh này là một loại chứng chỉ mà chính quyền Hongkong cấp cho những người tỵ nạn đã được tự do. Dân trốn trại thường xoay được chứng minh này rồi bóc ra, dán ảnh của mình vào rồi tìm cách kiếm việc làm. Đi làm vớ vẩn cũng được 300, 400 đô Hk/ ngày (tỷ giá lúc bấy giờ em nhớ là 780 đô HK đổi được 100 đô Mỹ), cả một gia tài đối với Việt Nam thời đó. Em chưa kiếm được chứng minh nên đành ở nhà cơm nước phụ giúp anh em đi làm chờ cơ hội.

Ở đây, em mới biết thế nào là heroin, biết phần nào về cuộc sống của những người nghiện hút. Theo em được biết, thời đó Vn mình chưa có heroin, nghiện hút ở Vn mình chủ yếu là thuốc phiện đen, hút bằng bàn đèn. Nạn heroin có lẽ chính là tràn từ Hk về. Căn nhà mấy anh em ở lại đôi khi trở thành nơi tụ tập của mấy ông nghiện. Em bé nhất, lại là người mới nên trở thành người đi mua thuốc cho các anh nghiện. Nghe chỉ dẫn, em cầm tiền đến điểm bán, gõ cộc cộc vào cửa, cửa mở hé, em đưa 50 đô hk và nhận một tép mang về cho các anh. 1 tép heroin được chứa trong một đoạn ống hút nhựa dài khoảng đoạn đầu lọc thuốc lá được hàn kín 2 đầu. Dân nghiện về bóc một đầu rồi nhồi vào giữa điếu Marlboro đỏ, vấn chặt lại rồi hút, rồi phê.

Cuối cùng, vận may cũng đến với em. Một hôm người bạn về nói là mấy hôm nữa có việc làm ở ngoài đảo, mày có đi thì mấy anh em đi cùng? Em mừng quá, gật đầu lia lịa. Được cái là đi làm chui, không cần giấy tờ vì chủ thầu là người Việt. Thế là mấy hôm sau anh em khăn gói quả mướp ra bến tàu ở Victorya Harbour bắt tàu ra đảo. Mà thật trùng lặp, cái đảo bọn em ra làm là do chính phủ HK quyết định xây 1 trại cấm mới cho dân tị nạn tại Tài A Chấu, chính là cái đảo bò mà bọn em cập bến HK lúc đầu tiên.

Hóa ra ngoài đảo rất nhiều người Việt tham gia xây dựng trại, cả người tự do cũng có, người trại cấm trốn ra như bọn em cũng có. Trại này được dựng với thiết kế là khung thép, vách được những tấm ghép vỏ tôn giữa là bông thủy tinh cách nhiệt. Công việc của bọn em là cưa cắt những tấm ghép đó và ráp vào với nhau.

Cuộc đời đôi khi gặp được những người tốt đến không ngờ. Em vẫn nhớ mãi anh Thanh Hồng, người Hòn Gai đã cưu mang giúp đỡ em trong những ngày ở đảo. Anh ấy người tự do, giờ chả biết đang định cư ở nước nào.

Làm được gần một tháng, bỗng một hôm có người hớt hải chạy vào hô có cảnh sát quây kín bên ngoài, tất cả người trại cấm tìm chỗ trốn đi. Cuống cuồng, bọn em lật tấm tôn sàn trong góc nhà chui vào nấp giữa khoảng không gian giữa sàn và trần tầng dưới. Người đậy tấm tôn chính là anh Thanh Hồng. Ba bốn anh em nằm im thin thít. Bên ngoài tiếng giầy đinh cảnh sát chạy rầm rập, tiếng đuổi bắt huyên náo. Em thì tim đập thình thịch, chỉ lo cảnh sát nó lật tấm tôn lên là xong. Bẵng đi một hồi lâu, bỗng nhiên mọi tiếng ầm ĩ nhỏ dần rồi im bặt. Bọn em sau khi thì thào bàn bạc quyết định cử một người bật nắp tôn ra thám thính. Các cụ tưởng tượng, khoảng cách từ trần tầng dưới đến mặt tôn bọn em trốn chỉ khoảng 50cm, có nghĩa là vô cùng chật chội, lách người ra hết sức khó khăn. Vừa ra được một lát đã thấy thằng kia hốt hoảng nhấc tấm tôn lên chui vào nói lắp bắp: đkm, bọn cảnh sát nó vẫn đứng đấy ngoài cửa… Em lách người cho nó chui vào thì: rầm một cái, cả tấm trần em đang nằm tuột ra rơi thẳng xuống sàn tầng dưới các cụ ạ. Phải đến 15 phút em tức thở không nói được. Cũng may em nằm trên tấm lắp ghép nên cũng giảm chấn, nếu không chả biết thế nào. Nằm dưới đất, mặc dù đau và tức ngực, không cựa quậy được, không nói được nhưng vẫn nhận biết được bóng cảnh sát ngoài cửa. Em chắc mẩm 100% là bị bắt, nhưng đến giờ vãn không hiểu vì sao mặc dù em rơi cái rầm một cái to như thế mà bọn nó không phát hiện ra. Một lúc lâu sau thì cảnh sát rút, em cũng cựa quậy được và bạn em nó cũng nhảy xuống đỡ em dậy. Hoá ra trong lúc rơi, cánh tay em quoạc vào mảnh tôn nào đó làm rách chảy áu rất nhiều, nhìn thấy cả xương. Mọi người lấy bông băng sơ cứu tạm cho em cầm máu và sát trùng. Đáng lý ra vết thương như vậy thông thường phải khâu nhưng vì hoàn cảnh nên em mặc kệ, cuối cùng vết thương cũng tự lành.

Một thời gian sau, hết việc, mấy anh em lại quay trở lại trại Kai Tak. Về trại, có được ít tiền lương, việc đầu tiên là sắm một cái quần bò, áo phông và một đôi giầy thể thao Bossini cao cổ cho đúng mốt lúc bấy giờ, phòng đi đâu đỡ lộ là dân trốn trại. Nhưng đáng buồn là lại thất nghiệp vì em vẫn chưa kiếm được giấy chứng minh. Hàng ngày bọn bạn đi làm, em chỉ dám quanh quẩn trong trại không dám thò đầu ra ngoài sợ bị bắt. Đúng hôm rằm tháng bảy, nhìn các gia đình người ta quây quần cúng bái, ăn uống sum vầy, tự dưng thấy nhớ nhà da diết. Nhớ bố mẹ, anh em, bạn bè, nhớ từng mảng vỡ của bức tường đầu ngõ…

Một tối, mấy đứa bạn rủ em bắt taxi quay về trại Tuen Mun chơi. Đang đi lang thang ở sân trại, tự dưng em nhìn thấy bà cô họ gần đang rửa bát. Mừng quá em chạy vội lại hỏi xem có đúng không cho chắc ăn. Hoá ra đúng thật, bà ấy sang từ năm 88 và là người tự do. Chào tạm biệt bạn bè, em về ở cùng với gia đình bà cô gồm có ông bà bố mẹ chồng, chồng và đứa con gái cô em mới được hơn 1 tuổi. Hôm sau, em được ông chú dẫn đi ra phố kiếm việc làm. Ông chú sang lâu rồi nên cũng biết ít tiếng, vừa dẫn em đi vừa dạy vài câu đơn giản. 2 chú cháu cứ xông bừa vào các xưởng sản xuất, công trường xin việc. Nói chung là thỉnh thoảng cũng được nhận nhưng chỉ được vài hôm là hết việc. Có lần, xin được vào làm ở nhà máy nhiệt điện Tsing Yi. Công việc là cắt những mảnh bông thuỷ tinh rồi dùng dây théo bọc các ống dẫn nhiệt, những cái dăm thuỷ tinh dính vào người ngứa kinh khủng. Một trưa, sau khi ăn cơm xong, em chỉ nằm ngả lưng xuống sàn nhà máy ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Tỉnh dậy chỉ quá giờ quy định có 15 phút mà chiều thằng chủ nó đuổi luôn. Một bài học đầu tiên về kỷ luật lao động.

Lại nói về cái trại Tuen Mun, đó là một trại mở, nhưng lại không mở hoàn toàn. Ở tring trại đi ra ngoài thì thoải mái, nhưng đi vào trại phải qua cổng có cảnh sát đứng canh. Mọi lần đi về, 2 chú cháu thườngvđi vòng ra sau trại rồi trèo rào vào. Hôm đấy tự dưng lười, ông chú bảo thôi mày cứ cầm chứng minh thư của tao vào rồi vứt qua hàng rào, xong tao chạy ra lấy, chả mấy khi chúng nó hỏi giấy đâu mà sợ (ông chú nhưng lại chỉ hơn em có 1 tuổi, mặt lại hao hao giống nhau). Xong chú em còn dạy mấy câu đại loại là nếu nó hỏi số chứng minh bao nhiêu, em học thuộc lòng số thẻ bằng tiếng tàu rồi trả lời nó. Học xong xuôi đâu đấy, em đi vào cổng, trong lòng vẫn lo lắng, sợ sệt. Cúi đầu rảo bước theo dòng người đi qua cổng vào trại, bỗng nhiên có thằng cảnh sát chặn lại hỏi chứng minh, thôi bỏ mẹ, xong rồi. Em cố làm ra vẻ bình thản rút ví đưa chứng minh ra, sau đó nó hỏi đúng câu đã được học, em cũng trả lời như sách. Thằng cảnh sát xì xồ một tràng tiếng tàu khác, đến đây thì em bó tay thật sự. Thế là nó biết tỏng em là người rơm, nó cùng với mấy thằng nữa túm ngay em lại lôi vào đồn.

Em bị đưa lên xe cảnh sát dẫn giải về đồn Yen Long cách đấy mấy trạm tàu điện. Hàng ngày bị đưa đi lấy cung (có phiên dịch) rồi lại quay về buồng giam. Được mấy hôm thì bị ra toà xử. Ra toà, nó hỏi em có nhận tội ăn cắp chứng minh không, em nói em chỉ nhặt được chứ không ăn cắp. Toà nó cũng chả kết luận gì chỉ bảo: thôi, toà cho về trại hẹn 2 tuần sau xử lại và cho làm thủ tục bảo lãnh rồi về trại. Nói xong cảnh sát dẫn em đi làm thủ tục. Thật ngạc nhiên, chỉ những công dân HongKong hoặc những người Việt Nam đi trước mốc được cấp chứng minh mới được làm thủ tục này, đây đúng là một sự nhầm lẫn nghiêm trọng (nó nhầm em là người của trại tự do). Về sau nó phát hiện ra sai sót, tý nữa thì nó thả em. Thế là em lại bị nhét lên xe thùng chở thẳng về trại cấm Argyle Street chờ 2 tuần sau xử án.

Về trại cấm, em nhớ cuộc sống ngoài tự do, và thèm nhất cô ca các cụ ạ. Chả hiểu sao lại thèm cái nước giải khát quái quỷ ấy. Đungs là cái bọn tư bản này nó chỉ làm hư người ta các cụ nhỉ? Thế rồi, về được mấy hôm, em lại theo một nhóm bạn khác xé rào trốn trại. Mặc dù biết mình đang chờ xử, trốn thế này nó xử nặng lắm đây. Mà thôi kệ, đời thằng trại cấm thì có gì mà mất? Lần này trốn có kinh nghiệm rồi nên không bị bỡ ngỡ như lần đầu, bọn em về luôn một cái nhà mà một nhóm ra trước đã thuê sẵn. Căn nhà này thực ra cũng gần cái trại Tuen Mun kia, nó nằm ở trong một ngôi làng như làng quê Việt Nam vậy. Nhưngx người bạn ở đây lại xin cho em vào làm ở một công xưởng gần đấy. Hàng ngày sáng dậy em đi bộ qua một bến tàu điện là đến chỗ làm. Xưởng này sản xuất hộp xốp cơm hộp, cốc giấy.v.v. Lương em được 300 đô HK/ ngày. Việc cũng nhẹ nhưng không ngơi tay được lúc nào. Em ngồi đóng gói ở cái dây chuyền dập cái nắp hộp giấy, máy nó cứ chạy ra, mình đếm đủ số lượng rồi cho vào túi nylon rồi đóng vào hộp carton. Nói chung là ngồi từ đầu giờ cho đến lúc về. Nói chung là không trốn đi đâu được, chưa kể hàng ngày phải dập thẻ chấm công.

Buổi tối về nhà có người đi chợ nấu nướng, mấy anh chị em đóng góp tiền nhà, thức ăn.v.v. Cuộc sống tạm ổn và nó cứ thế êm đềm trôi nếu. Nhưng quả thật số em cũng nhọ các cụ ạ, một biến cố lại xảy ra với em….Lại bị bắt.

Khoảng 10 h tối hôm đấy, mọi người đang xem ti vi, đột nhiên tiếng chó sủa râm ran ở ở đầu làng. Linh cảm thấy chuyện chẳng lành, mọi người leo lên tầng 2 nhìn ra ngoài của sổ xem chuyện gì xảy ra. Bốn bề là đèn pin loang loáng, phải đến hàng trăm cảnh sát vũ trang đên tận răng bao vây xung quanh, có cả chó nghiệp vụ đi theo. Quái lạ, để bắt mấy thằng trại cấm làm sao phải nghiêm trọng thế nhỉ? Bọn em bảo nhau nằm rạp xuống nền nhà, ép sát vào dưới cửa sổ để bọn chúng không nhìn thấy. Nhưng không được, có mấy thằng cảnh sát leo cả lên cây nhòm vào và phát hiện ra trong nhà có người. Lập tức chúng dùng những cây thuổng, xà beng chuyên dụng phá tung cửa và tràn vào nhà, tay thằng nào cũng lăm lăm súng trên tay. Bọn chúng hét to: mau tay sai, xẩu bải cô thầu (cúi hết người xuống, tay để lên đầu), đồng thời chĩa súng vào thái dương từng người một. Sau một hồi khám xét, không phát hiện điều gì bất thường ngoài mấy thứ quần áo, đồ dùng và giấy tờ (giả), chúng đưa tất cả lên xe về đồn Yen long, vẫn là cái đồn em bị giam lần trước. Về đồn, lần lượt tất cả bị tách rời, giam ở các ôhngf giam khác nhau và bị đi lấy cung ngay. Thông qua phiên dịch, cảnh sát hỏi đi hỏi lại là có biết ai là người tên X (lâu ngày em ko nhớ tên chính xác) cụt tay phải không? Tất nhiên bọn em chả ai biết người đấy. Về sau bọn em mới biết có vụ bọn xã hội đen HongKong làm luật một cây xăng gần đấy không được, nó thuê người Việt Nam đốt cháy cây xăng đấy. Bọn em thuê nhà ở khu vực đấy bị oan gia. Đúng là số nhọ.

Sau khi xác định bọn em không phải nhóm người Việt Nam cần tìm kia, cảnh sát quay ra tố bọn em tội trốn trại. Còn trường hợp em, sau khi xem hồ sơ phát hiện ra em còn đang trong thời gian chờ xử, 5 ngày sau em tiếp tục bị đưa ra toà. Lên toà, nó cũng lại chỉ hỏi em một câu: mày bị cảnh sát câu mày vào tội ăn cắp chứng minh, mày có nhận tội không? Em trả lời em không nhận tội. Toà nó lại tiếp tục kết luận: trường hợp của mày cần chờ thêm báo cáo của cảnh sát, bây giờ cho về, 28 ngày sau lên xử tiếp. Và em lại bị đưa về chờ xử. Nhưng lần này em không được đưa về trại mà bị đưa thẳng về nhà tù, lần này là nhà tù Pik Uk, một nhà tù thật sự.

Từ toà, em bị tống lên xe thùng cùng với một loạt phạm nhân khác về Pik uk. Xe đi lâu lắm mới tới, em đoán nhà tù hẳn nằm ở một nơi rất xa. Cuối cùng thì cũng đến nơi, cả lũ bị đưa vào làm thủ tục nhập trại. Đầu tiên là cai tù bắt thay quần áo tù, đồ đạc thì đóng gói niêm phong vào một cái phong bì to. Trước lúc mặc quần áo tù là màn khám xét rất kỹ lưỡng, lật tóc, há mồm…và khâu kinh hoàng nhất là chọc hậu môn xem có giấu gì vào trại không. Xin lỗi các cụ để em tả kỹ cái khâu này: thằng mặc bộ đồ y tế nó bắt chống tay xuống bàn, chổng mông ra rồi nó dùng bàn tay có găng ny lon có dầu bôi trơn ngón tay trỏ nó ngoáy một phát. Cha mẹ ơi, cảm giác thật khó tả, nói chung là kinh hoàng. Về sau nghe anh em đi trại nhiều lần kể, bọn nó nhìn thằng nào mông nhiều sẹo ghẻ hoặc mông xấu xí (cái này thì đa phần là Việt Nam, bọn Hongkong toàn thằng trắng trẻo) nó thọc ngón tay vào rồi mới hỏi số thẻ, trả lời xong xuôi nó mới rút tay ra. Tiếp đến là lăn tay và các thủ tục khác. Xong xuôi thì xếp hàng theo a sề (sir – tất cả theo nguyên tắc phải gọi bọn cai tù là a sir) đi lĩnh mỗi người một đĩa cơm tù kèm một quả cam rồi về buồng. Về đến buồng thì trời đã tối mịt, nhai trệu trạo miếng cơm, bỗng đâu có tiếng người tù Việt Nam nào đó nghêu ngao hát bài: Đôi mắt người xưa của Tuấn Vũ, buồn thê lương.

Đến 10h, loa truyền thanh phát radio HongKong với mấy bài nhạc tàu khoảng 15 phút thì tắt, nhà tù đồng loạt tắt đèn, chỉ để đèn hành lang cho a sề đi tuần. Buổi sáng 6h có chuông báo thức, mọi người trước lúc ra khỏi buồng phải gấp gọn chăn gối và quần áo lót để ở đầu giường. Tất cả xết hàng ra nhà ăn ăn sáng rồi tập left, right (quay trái quay phải theo hiệu lệnh giống quân đội), tiếp đó được cho vào một cái sân có hàng rào xung quanh để dạo chơi, đến giờ lại lên nhà ăn, rồi lại tập, lại chơi, lại ăn rồi về buồng. Cứ thế, cứ thế cho đến ngày thứ 28 lên toà xử lại.

Lên toà xử lại, quan toà lại hỏi mày có nhận tội ăn cắp chứng minh không? Em lại bảo em không nhận. Thông qua phiên dịch, toà nó bảo mày nhận đi vì ở Hong Kong mày cầm và sử dụng chứng minh của người khác là phạm pháp, mày nhận tao sẽ xử mày mức án nhẹ nhất có thể, ngoài ra toà cũng không xử mày tội trốn trại nữa. Nghe bùi tai, em gật đầu nhận tội. Thế là toà nó xử em 6 tháng tù. Theo pháp luật Hong Kong, em chỉ ở 2/3 số thời gian bị xử nếu không vi phạm kỷ luật ở nhà tù.tính cả 28 ngày chờ xử lại, em chỉ phải ở tù hơn 3 tháng là về.

Chính thức là tù có án, em phải mặc bộ quần áo nâu với số tù 90397 gắn trên ngực thay cho tên bố mẹ đặt. Em được phân về ban của người Hong Kong, hàng ngày sinh hoạt cùng với những tù nhân người Hong Kong. Những người tù đã có án ở đây các buổi sáng đều được đến một công xưởng làm việc. Ở đây có xưởng giặt là, đóng sách, làm vệ sinh, nhổ cỏ trồng cây.v.v. Buổi chiều thì được đi học, chơi bóng chuyền, bóng rổ, bóng đá xen kẽ nhau. Sân bóng chuyền thì chơi trong nhà có sàn gỗ, sân bóng đá thì mặt sân có khi còn đẹp hơn các sân tập của các đội hạng A ở Việt Nam. Buổi tối về buồng, rảnh rỗi chả biết làm gì bọn em thằng thì viết sổ lưu niệm, thằng thì đánh thật bóng đôi giày mình đi.

Em may mắn được phân về xưởng đóng sách, có vị sư phụ già vô cùng tốt và hiền hậu. Sư phụ ngày nào cũng thủ ít kẹo vào phát cho mấy thằng tù. Đến giờ em vẫn nhớ nụ cười hiền từ của sư phụ. Bọn tù ai cũng quý mến ông. Hồi đấy sư phụ đã già lắm rồi, chả biết bây giờ ông như thế nào. Khẩu phần ăn uống thì cũng ổn, ngày ăn 3 bữa, buổi tối lại còn được 1 cốc sữa tươi và 2 lát bánh mỳ mỏng.Trại Pik Uk là trại dành cho các tù nhân dưới 21 tuổi, vì vậy theo quy định bọn em không được phát thuốc lá. Do đó nếu ai bị bắt gặp hút thuốc coi như vi phạm kỷ luật. Thèm thuốc, bọn em phải lén nhặt những đầu mẩu thuốc lá thừa bọn cai tù nó vứt đi rồi mang về buồng phơi khô cuộn lại rồi mang vào góc nhà vệ sinh hút trộm. Để lấy được lửa thì kỳ công lắm, đầu tiên phải bóc đôi những mảnh giấy cho thật mỏng rồi vo tròn áp chặt vào cái bóng đèn trên trần, khi đủ nóng lấy xuống ra sức thổi cho bén lửa rồi châm thuốc.

Ở tù mới thấy dân Hong Kong nó ghét và khinh miệt dân đại lục như thế nào. Nó toàn gọi là bọn chó đại lục. Còn về dân Việt Nam thì chúng nó vừa nể vừa sợ. Nể sợ vì nếu đánh nhau thì Việt Nam là vô đối và sẵn sàng bênh nhau mặc dù không quen biết. Có lần bọn em đang sinh hoạt ở buồng giải trí, đột nhiên chuông báo động kêu ầm ĩ, bọn cai tù chạy rầm rập. Hoá ra chả biết xích mích gì, bên khu án giết người, mấy thằng Việt Nam mài nhọn bàn chải đánh răng đâm mấy thằng cũng án giết người Hong Kong thủng lỗ chỗ. Còn một giai thoại nữa, bọn Hong Kong bảo với em, công nhận bọn Việt Nam mày ăn cắp giỏi, dân HK nó đồn đại là chỉ cần một thằng Việt Nam nó đi ngang qua mày thôi thì mày đã bị nó lấy mất cái áo lót từ lúc nào rồi.

Ở đây, tuy là tù nhưng đi làm cũng có lương. Lương thì không cao và không được nhận tiền mặt mà nó phát cho một cái bảng lương tương đương với một số tiền nhất định, ra căng tin mua đồ thì mua hết bao nhiêu sẽ trừ tiền tương ứng. Tiêu không hết thì lúc ra tù được quy ra tiền mặt. Được cái em ở cùng với dân Hong Kong, được sinh hoạt ăn ở với chúng nó, hơn nữa em lại chịu khó học nên trình tiếng tàu của em chỉ sau một thời gian lên rất nhanh. Em có thể trao đổi nói chuyện với người HK về mọi mặt trong cuộc sống, thậm chí xem tivi, xem phim em cũng hiểu được rất nhiều. Chẳng biết các cụ có tin không, chứ kể cả bây giờ sau 23 năm, nếu các cụ thấy em nói tiếng Quảng Đông sẽ không nghĩ em là người Việt.

Ở đủ 4 tháng, em được ra tù và lại lên xe thùng trở về trại Argyle, về đến trại cấm thì cũng chỉ còn mấy ngày nữa là tết âm lịch.
Về trại Argyle được vài tháng thì bọn em phải chuyển vào trại Shatin. Trại Shatin có lẽ là trại tị nạn lớn nhất Hongkong, tên chính xác của nó là White Head Detention Centre. nó được chia làm 10 trại nhỏ, mỗi trại nhỏ này chứa khoảng 3000 người. Trong trại có nhiều buồng, trong buồng có các giường tầng cho các hộ gia đình sinh hoạt, trú ngụ. Mỗi trại đều có nhà tivi công cộng, khu vệ sinh công cộng, sân bóng chuyền, bóng đá mini. Mỗi buồng có buồng trưởng, cả trại có đội trật tự (thành viên toàn đầu gấu). Không may cho em lại phải vào trại 9 Shatin là trại có trật tự trưởng khét tiếng tàn ác: Xìn Cơm. Trại 9 này đa phần là các thuyền nhân từ trại Shek Kong chuyển vào, mà trại Shek Kong nổi tiếng với trận đánh nhau đẫm máu và khốc liệt nhất trong lịch sử tị nạn Việt Nam tại HK giữa dân Hải Phòng và Quảng Ninh. Em nghe kể lại thì đánh nhau thế này: đàn ông 2 bên dùng nắp thùng rác làm lá chắn, dùng đoạn tuýp ống nước cắt vát nhọn làm giáo xông lên đánh giáp lá cà. Đàn bà con gái tuyến sau đập nhỏ những miếng gang đậy nắp cống làm lựu đạn cho đàn ông ném về phía đối phương. Đánh nhau ở trại cấm HK thì khủng khiếp lắm các cụ ạ. Người Việt mình là vậy đó, lúc đầu tất cả sống cùng nhau, được một thời gian xẩy ra chiến tranh giữa miền Nam – miền Bắc. Phân chia bắc nam xong thì lại Hải Phòng xung đột với Quảng Ninh. Chia Hải Phòng, Quảng Ninh ra thì phía Hải Phòng lại nội thành đánh nhau với Thuỷ Nguyên, Đồ Sơn, Quảng Ninh thì miền đông chiến với miền tây, cứ thế chiến tranh triền miên. Chính vì vậy nên bọn Hong Kong nó dùng chính người Việt trị người Việt. Nó cho phép thành lập đội trật tự giữ gìn an ninh chung của trại với nhiều bổng lộc được hưởng, tất nhiên là bọn đầu gấu chúng nó nắm lấy chức vụ này ngay. Bọn chúng lợi dụng quyền hành áp đặt những luật lệ có lợi cho chúng. Ví dụ chỉ có chúng nó mới được quyền nấu rượu bán, những ai làm trái hoặc chống đối sẽ bị chúng nó đánh đập rất dã man. Có những trường hợp bị tra tấn bằng cách bị bắt nằm sấp xuống, chúng nó kê mấy cuốn sách lên lưng rồi dùng búa đinh giã.

Vác ba lô túi xách vào nhập trại, em may mắn được ở cùng một gia đình anh chị lớn tuổi người Quảng Ninh. Ngoài ra còn mấy anh em độc thân khác cũng sinh hoạt cùng. Số thẻ mới của em là 77654, số buồng 4A. Dần dần rồi cũng quen với cuộc sống mới trong trại 9 nổi tiếng hà khắc này. Mấy ông độc thân thì thức muộn, có hôm 2, 3 h đêm mới ngủ, hôm sau gần trưa mới bình minh. Tối thì tụ tập chè cháo, chém gió chán rồi ra nhà ăn xem ti vi. Cơm nước thức ăn thì cơ bản cũng giống các trại khác, đồ trại phát về cũng phải chế biến nấu nướng cho khác vị để cải thiện. Đồ tươi ở đây là xa xỉ, rất hiếm, chỉ có đầu gấu hoặc những người có điều kiện liên hệ với ngoài tự do gửi vào mới có. Ai có tiền thỉnh thoảng mua ca rượu về nhậu. Kể ra người Việt mình cũng tài, trong hoàn cảnh tù túng thiếu thốn đủ mọi mặt thế mà cũng nấu được rượu mới giỏi. Nghe đâu họ nhờ mua được men rồi ủ rượu bằng cơm tẻ. Nấu rượu là độc quyền của đầu gấu, dân thường đừng hòng có cơ hội. Buồng em ở là buồng 4a, được gọi là buồng Macao vì mọi người hay tụ tập cờ bạc ở đây. Dưới sàn là sòng sóc đĩa, các phản khác, chỗ thì đánh tiến lên, chỗ thì đánh chắn ăn tiền, ăn thuốc lá… Cũng vui phết.

Buổi tối thường là mọi người hay bàn tán về chuyện thanh lọc. Như em đã nói từ đầu, kể từ sau mốc 16-6-1988, ai đến HK sau thời điểm này đều bị gọi là thuyền nhân nhập cảnh trái phép và đều bị giam giữ trong các trại cấm. Mọi người sẽ trải qua kỳ phỏng vấn thanh lọc, ai chứng minh được là tỵ nạn chính trị sẽ được đi nước thứ 3. Nếu qua 3 vòng phỏng vấn và 1 vòng cuối cùng gọi là tái cứu xét mà thất bại (bọn em gọi là ăn cánh gà) thì sẽ bị tiếp tục giam giữ chờ ngày trả về VN. Sau khi ăn cánh gà, Cao uỷ tị nạn Liên hiệp quốc khuyến cáo nên tự nguyện hồi hương, nếu không thì sẽ bị cưỡng ép trở về. Cũng có nhiều cuộc biểu tình, tuyệt thực phản đối chính sách này nhưng cũng chẳng thay đổi được gì. Những thành phần như bọn em thì chẳng hi vọng gì, thôi kệ mọi sự, muốn đến đâu thì đến. Có một số người thì hi vọng đến năm 1997 HK trả về với TQ, kiên trì bám trụ sẽ được đi nước thứ 3.

Vào trại này khác hẳn các trại kia, quy mô hơn hẳn. Có trạm xá y tế, có thư viện, nhà bếp, xưởng may, văn phòng trại, khu sổ ky (khu nhà giam kỷ luật cách ly khỏi khuôn viên trại)… Và cơ hội trốn trại gần như bằng 0 vì hệ thống hàng rào, canh giữ vô cùng cẩn mật, kiên cố. Chỉ có vài trường hợp cố tình tự tạo cho mình bị thương đến nhiễm trùng, trạm xá không chữa được phải cho xe chở ra bệnh viện ngoài Hong Kong rồi từ đó lợi dụng sơ hở trốn thoát.

Một biến cố xảy ra với em: chả là một người bạn từ hồi ở trại cũ có ông anh trai đang định cư bên Nhật gửi về cho nó 1 cái head phone Panasonic. Có lẽ hồi đấy là một trong những cái phone hiện đại nhất lúc bấy giờ (năm 1992). Nó chỉ to hơn cái băng cát xét một chút, có điều kiển trên dây tai nghe, dùng 1 cục pin tiểu hoặc 1 viên pin xạc dẹp mỏng như thanh kẹo cao su. Cắm tai nghe vào, giọng hát của Tuấn Vũ cất lên thì cứ gọi là chết lịm các cụ ạ. Bạn em nó đưa cho em mượn mang về giường nằm nghe, chả hiểu sao có ai mách đến tai thằng trật tự trưởng. Nó cho đàn em đến nói ý là em phải mang cống nạp cho nó. Tiếc của, em với thằng bạn chạy lên văn phòng trại nói với cảnh sát là bọn đầu gấu định cướp của bọn tao, đe doạ tính mạng nên bọn tao xin vào sổ ky lánh nạn chờ xin chuyển trại khác. Thế là bọn em bị đưa vào sổ ky an dưỡng. Sổ ky chả khác gì biệt giam, hàng ngày cơm đưa đến tận phòng, vệ sinh tắm rửa trong phòng. Mỗi ngày 2 thằng được ra ngoài đi dạo phơi nắng nửa tiếng rồi lại về phòng, buồn nẫu ruột.

Cái sổ ky nó nằm gần nhà tivi, chỉ cách một bức tường rào và lối đi. Một hom có tiếng thằng bình luận viên nó gào lên cùng những tiếng ồ của khán giả làm em tỉnh giấc, hoá ra là trận chung kết cúp C1 giữa Barca và Sampdoria, trận R. Koeman ghi bàn thắng duy nhất bằng quả sút trực tiếp. Em thì dân nghiền bóng đá nặng mà vài hôm nữa thì có vòng chung kết Euro 92 (năm mà Đan Mạch vô địch). Mãi chả thấy nó cho em chuyển trại, Đắn đo suy nghĩ chán chê, em quyết định xin về buồng để xem bóng đá. Xác định rõ khả năng bị ăn đòn búa đinh rất cao, nhưng vì tình yêu bóng đá, em chấp nhận. Về buồng, em cũng quái, mò ngay sang buồng gặp Xìn Cơm trật tự trưởng để xin lỗi, hi vọng nó bỏ qua. May mắn làm sao, gặp phải hôm nó dễ tính, chỉ nhắc nhở qua loa. Em lí nhí vài câu cám ơn rồi tếch thẳng. Thế là thoát, và tận hưởng hương vị của một Euro đầy kịch tính. Về sau, Xìn cơm cũng hồi hương và bị đâm chết trong ngõ nhà em. Nghe đồn là kẻ thù cũ trong trại cấm về đâm chết.

Đến cuối năm đấy thấy tương lai mờ mịt, cộng với nỗi nhớ nhà, em quyết định hồi hương. Làm đơn gửi trại, sau mấy tuần thì em ra trại Lowu (trại chờ bay). Trại này nằm ngay sát Thâm Quyến Trung Quốc. Ở đây mấy hôm thì xe đưa ra sân bay Kai Tak, lên Boeing 767 bay thẳng về quê hương. Lúc lên cầu thang chuẩn bị chui vào máy bay, em quay người nhìn lại tự nhủ, thế nào mình cũng quay lại nơi này, miền đất hứa với bao kỷ niệm không bao giờ phai mờ với một vị thế khác.

Xuống Nội Bài, nhìn ra đường băng thấy cỏ mọc um tùm, trâu bò đi lại tự nhiên thấy lòng nặng trĩu, tự hỏi hay mình đã quyết định sai? Mà cũng đã muộn, sai đúng giờ cũng chẳng sửa chữa được, phải chấp nhận thôi. Hít một hơi thở sâu, khoác ba lô đứng dậy khỏi ghế, em theo dòng người bước xuống máy bay.

Vẫn chưa được về ngay, em còn phải ở lại trại tiếp nhận của công an ở Cổ Nhuế mấy hôm mới được đưa về sở Lao Động thành phố. Bước ra cửa thấy bố mẹ và đứa em ra đón, nước mắt chợt trào ra. Thế là đã về nhà, kết thúc 3 năm rưỡi trời tha phương cầu thực nơi đất khách quê người. Còn 2 tuần nữa là Noen 1992, năm đấy em tròn 21 tuổi.
Vậy đấy, em đã kể câu chuyện nhạt của em, nhưng là câu chuyện của đời em.

Ps:
Năm 2010, em có quay lại Hong Kong trong một chuyến du lịch với gia đình. Em cũng đi tìm lại những nơi chốn cũ, nhưng chính phủ Hong Kong đã phá hết những trại tị nạn xưa để xây lên những công trình to lớn và tráng lệ.
Đã 23 năm trôi qua, giờ đây em đã hơn tứ tuần. Cũng tạm gọi là thành đạt với một gia đình hạnh phúc, một cháu gái và một cháu trai. Nhưng mãi mãi không bao giờ quên quãng đời mà em đã để lại một phần tuổi thanh xuân ở mảnh đất Hong Kong đấy.

Hôn nhân và tình yêu

Lược dịch từ The World Historical Transformation of Marriage, tác giả Stephanie Coontz. 

Trong suốt hàng ngàn năm, hôn nhân chủ yếu không phải để đôi lứa yêu nhau được đến với nhau, mà là một cách để đánh dấu những đứa trẻ thành “người trưởng thành” và sắp xếp những “người trưởng thành” đó vào một vị trí trong xã hội. Nó là cách để tích lũy tài sản, tạo dựng mối quan hệ, phân chia công việc, đồng thời xác định quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên. Vì thế, nhu cầu cá nhân, đặc biệt là của phụ nữ và trẻ em, thường bị xem nhẹ. Thời xưa, cưới vợ gả chồng quan trọng ở chỗ “kiếm được thông gia tốt” hơn là tìm một người tâm đầu ý hợp.

Ở tầng lớp giàu có, hôn nhân là công cụ chính để củng cố quyền lực và của cải. Của hồi môn, sính lễ hay mối quan hệ chính trị đều là những khoản đầu tư lớn của những dòng họ danh giá. Ngay cả giới trung lưu cũng coi việc gả cưới là cách chuyển giao tài sản, nghề nghiệp, quan hệ xã hội hay công cụ làm ăn giữa các thế hệ. Đối với đàn ông, hôn nhân thường là khoản bảo hiểm lớn nhất. Người vợ hay đứa con sẽ là người chăm sóc anh ta lúc về già hay xa cơ lỡ vận. Với phụ nữ, chọn được chồng tốt gần như là quyết định quan trọng nhất trong đời. Chọn đúng thì thành nữ chính tiểu thuyết, chọn không đúng lắm thì thành người phụ nữ truyền thống của gia đình.

Với nông dân hay giai cấp bần nông, hôn nhân cũng mang tính “làm ăn”, chỉ khác ở quy mô. Người ta băn khoăn: ruộng nhà anh ấy có gần ruộng mình không, gia đình bên kia có mối quan hệ tốt với hàng xóm không, thông gia này có giúp được gì không, hay lại chỉ thêm phiền? Bởi lẽ, để có thể sống sót trong thời kì phong kiến, nơi một năm mất mùa là đủ để cả gia đình chết đói, thì tình cảm hay tính cách cá nhân sẽ không quan trọng bằng khả năng tháo vát hay kỹ năng lao động.

Dù giàu hay nghèo, hôn nhân là dấu mốc quan trọng để một đứa trẻ được xã hội xác nhận sự trưởng thành và nhận được sự “tôn trọng” từ xã hội. Nhưng đừng ngây thơ, hôn nhân ngày ấy còn là công cụ để người lớn tận dụng sức lao động của con cái, người già tận dụng sức lao động người trẻ, tập thể tận dụng sức lao động cá nhân.Thêm một đứa con dâu (hay rể) là thêm người lao động “miễn phí”. Cũng đúng thôi, muốn được tôn trọng thì phải đóng góp, phải làm, phải cống hiến.

Còn tình yêu ư? Thật lòng mà nói, tình yêu là lý do tệ nhất để cưới nhau. Người ta mong rằng sau khi cưới sẽ phát sinh tình cảm, biết sống “có tình có nghĩa”. Cha mẹ đôi khi cho người con quyền từ chối nếu quá ghét đối phương, nhưng không ai đặt tình yêu làm trọng tâm. Ly hôn, nếu có, thường vì muốn đổi sang thông gia khác ngon hơn, hoặc vì chưa có con, chứ ít ai chia tay vì “hết yêu”.

Từ thế kỷ 17, một loạt thay đổi về chính trị, kinh tế và văn hóa bắt đầu làm lung lay những chức năng cũ của hôn nhân, đồng thời đặt dấu hỏi về quyền lực của cha mẹ, các tầng lớp ưu tú hay chính quyền trong việc kiểm soát đời sống cá nhân,  bao gồm cả chuyện cưới hỏi. Đến thế kỷ 18, lý tưởng mới “kết hôn vì tình yêu” lan rộng khắp Tây Âu và Bắc Mỹ, trở thành cuộc cách mạng thực sự.

Từ đây, các cặp vợ chồng được kỳ vọng dành nhiều tình cảm cho nhau và cho con cái hơn là cho họ hàng hay xã hội. Hôn nhân không chỉ để duy trì dòng tộc hay phát triển xã hội mà trở thành một mối quan hệ riêng tư, gắn bó và đầy tình cảm. Dù chưa giống quan niệm ngày nay rằng vợ chồng phải là “bạn thân và người tình” của nhau, nhưng sự thay đổi quan niệm này đủ ra gây ra những xáo trộn lớn.

Ngay lập tức, nhiều người đương thời nhận ra rằng lý tưởng mới có thể làm đảo lộn xã hội. Khi tình yêu được xem là lý do chính để cưới, thì ly hôn là một quyền chính đáng cho những gia đình không còn yêu nhau. Thậm chí, những lời kêu gọi đầu tiên về việc hợp pháp hóa đồng tính luyến ái cũng xuất hiện vào cuối thế kỷ 18, từ chính những người ủng hộ hôn nhân xuất phát từ tình yêu. Giai cấp cầm quyền thì lo ngại: ngay cả khi hôn nhân ổn định, giá trị mới này cũng khiến đôi vợ chồng “quá bận tâm đến nhau”, bỏ bê nghĩa vụ đối với xã hội.

Nói cách khác, những giá trị mà chúng ta ngày nay thường coi là “truyền thống” của hôn nhân, ví dụ như tình yêu, sự gắn bó, sự riêng tư, thật ra mới xuất hiện gần đây và được coi như cách mạng về nhận thức. Chúng đã trao cho hôn nhân sức nặng cảm xúc to lớn, nhưng đồng thời cũng gieo mầm cho sự mong manh của nó. Chính những điều làm hôn nhân trở thành một mối quan hệ quý giá và cũng là những yếu tố khiến nó trở nên dễ tan vỡ. Hôn nhân dần trở thành lựa chọn, chứ không còn là điều bắt buộc.

Trong nhiều thập kỷ gần đây, người ta vẫn tranh luận tại sao “hôn nhân suốt đời” lại bắt đầu rạn vỡ từ thập niên 1970. Phe tự do cho rằng nguyên nhân là do kinh tế – xã hội thay đổi; phe bảo thủ thì đổ lỗi cho sự suy thoái giá trị. Nhưng theo tác giả Coontz, câu hỏi thật sự không phải là “tại sao nó đổ vỡ ở thập niên 1970”, mà là “tại sao nó không đổ vỡ ngay từ thập niên 1790”, khi hôn nhân xuất phát từ tình yêu vừa ra đời.

Coontz không cho rằng hôn nhân sẽ biến mất. Tuy nhiên, bà khẳng định hôn nhân sẽ không bao giờ lấy lại vị thế tối cao của nó như đã từng. Ngày nay, luật pháp ở nhiều quốc gia phương Tây (và một số nơi khác) đã xóa dần ranh giới giữa người kết hôn và người không kết hôn. Các cặp đôi sống chung cũng có nhiều quyền lợi và nghĩa vụ giống như vợ chồng hợp pháp. Ngược lại, người đã kết hôn nhưng muốn chia tay thì không còn bị ràng buộc bởi luật pháp hay áp lực xã hội như trước.

Các học giả gọi hiện tượng này bằng nhiều tên: “phi thể chế hóa hôn nhân”, “phi pháp hóa hôn nhân”, hay thậm chí “giảm trù hôn nhân” (demarriage). Coontz thích ví nó giống như việc tách tôn giáo khỏi nhà nước: khi một tôn giáo không còn được nhà nước ưu ái đặc quyền, tôn giáo không biến mất mà lại nảy sinh thêm nhiều giáo phái và nhóm mới. Hôn nhân ngày nay cũng vậy: khi giấy đăng ký kết hôn không còn là điều kiện duy nhất để được xã hội “tôn trọng”, nhiều hình thức hôn nhân mới xuất hiện và được thừa nhận.

Theo Coontz, các nhà sử học thường dè dặt khi dùng chữ “cách mạng” cho những biến đổi xã hội, vì hầu hết đều có gốc rễ sâu xa và vẫn còn nhiều sự tiếp nối với quá khứ. Nhưng lần này thì khác: bà tin rằng chúng ta đang sống giữa một cuộc chuyển biến lịch sử toàn cầu về hôn nhân và gia đình. Mọi thứ thay đổi nhanh đến mức khó phân biệt đâu là đặc điểm của một hệ thống mới, đâu chỉ là biểu hiện tạm thời. Nhưng có một điều chắc chắn: hôn nhân sẽ không còn như đã từng nữa.

Dù tốt hay xấu, mối quan hệ giữa hôn nhân với xã hội đã thay đổi tận gốc, và trải nghiệm mỗi cá nhân về hôn nhân cũng vậy. Thay vì tranh luận xem “mô hình gia đình chuẩn” phải thế nào, nhiệm vụ quan trọng hiện nay là làm sao để hỗ trợ nhiều dạng quan hệ gắn bó khác nhau, giúp chúng phát huy điểm mạnh và hạn chế những bất cập.