Tác giả Chicken222, đăng lần đầu trên Voz, năm 2020
Nước Nga trong khoảng 20 năm trở lại đây (chính xác phải là hơn 30 gần 40 năm, nhưng những biến động lớn thì khoảng 20 năm) gắn liền với sự hình thành, lớn mạnh của một xã hội ẩn, phía sau những tòa nhà kì vĩ hay những công trình xây dựng mang đậm tính Xô Viết, xã hội của những người di cư.
Tôi không có ý định đưa ra câu trả lời hoàn chỉnh cho câu hỏi này, tôi chỉ muốn nói về người VN và một vài cộng đồng khác mà tôi biết.
Người VN, họ là những người đi theo các hợp đồng xuất khẩu lao động thời Xô Viết, họ là những người đi theo tiếng gọi của những giấc mơ đổi đời mà người thân đã thành công nơi này kể lại, họ có thể là những người đi theo diện xuất khẩu lao động sau ngày nước Nga ổn định, họ có thể là những người vượt biên đến từ Đông Đức cũ hay các nước cộng hòa trước đây. Vô vàn những ví dụ và vô vàn những số phận.
Họ có thể là thương nhân trưởng thành từ một giai đoạn LX thiếu thốn hàng tiêu dùng hoặc kém cỏi trong phân phối. Những người này có thể buôn từ cái bàn là cái nồi áp suất, đôi giày da, cái quần Jean, cái áo khoác, đồ lót, đồ điện tử… mọi thứ và theo những con đường khác nhau. Hàng trăm container hàng từng theo những chuyến tàu lênh đênh trên biển cập bến HP hay những cảng khác mang theo bao nhiêu là bàn là Liên Xô, nồi áp suất, bếp lò xo và sau đó những chuyến hàng quay ngược sẽ là quần Jean Tàu, đồng hồ Casio, Seiko, dây thun, cúc quần Jean (một thứ tưởng buồn cười nhưng tỉ lệ lợi nhuận cao đến không thể tả)… lại quay về nước Nga để theo những bàn chân không mỏi len lỏi khắp nước Nga bằng những chuyến tàu chiều thứ Sáu hay những chuyến xe khách xuyên đêm nối giữa những miền quê. Nhắm mắt lại, sẽ thấy những đường chuyển hàng nhỏ bé nhưng cần cù tỏa ra khắp những nơi có người VN sinh sống trên nước Nga những ngày ấy. Không thể phủ nhận rằng những chú kiến VN bé nhỏ đã góp phần ổn định phần nào nhu cầu hàng tiêu dùng cho toàn nước Nga những năm tháng xám một màu bao cấp ấy. Nói thêm là dù tiếng Nga rất tệ, người Nga vẫn hiểu được những con người VN bé nhỏ ấy muốn nói gì. Những năm tháng ấy, nụ cười luôn nở tươi trên môi những người Nga đôn hậu khi đến mua hàng hay được mua hàng từ những người bạn VN bé nhỏ. Họ thân thiện với nhau như những người cộng sản chân chính.
Họ cũng có thể là những sinh viên giỏi từng được cử đi nước ngoài du học. Những con người với kiến thức, đầu óc và khả năng tiếng Nga của mình đã tìm ra rất nhiều cách kiếm tiền bằng chuyên môn. Dom 5, một địa danh mà bất cứ người VN nào ở Moscow những năm đầu 80 đến đầu 2000 đều biết. Đã có những lúc trong căn chung cư ấy có vài cái xưởng tách vàng hay kim loại màu đặt trong những căn hộ bé xíu đã được cải tạo thành các phòng thí nghiệm nhỏ.
Họ cũng có thể là những đại gia sau những năm 90 ở VN mang theo tiền và cung cách làm việc sặc mùi XHD sang nước Nga đầu tư. Những người này tôi ít tiếp xúc nên không muốn bàn sâu.
Họ có thể là những cô gái sang đây làm công tác phục vụ xã hội hoặc lưu lạc từ những xưởng may về với nghề nghiệp này. Phần lớn họ không đẹp và đối tượng phục vụ cũng phần đông là các thanh niên SNG xa gia đình hay những bác Nga già còn máu. Tỷ lệ phục vụ cho người VN không cao do nhan sắc các cô thì thường vừa mắt người nước ngoài hơn người VN.
Họ cũng có thể là những nhóm XHĐ sang đây tìm cơ hội. Số này tôi cũng ít tiếp xúc, chẳng muốn nói.
Rất nhiều mà khó có thể miêu tả kĩ về những dòng chảy con người đến và ở lại với nước Nga. Mỗi nhóm người ấy, khi đi sâu tìm hiểu lại thấy bao nhiêu điều hay cũng như dở, thú vị cũng như đau lòng. Chỉ có một điểm chung giữa họ với nhau đó là họ luôn ý thức được mình là người nước ngoài cho dù họ có hộ chiếu Nga hay không. Nước Nga chưa bao giờ là miền đất hứa cho người nước ngoài, đặc biệt là Châu Á và đặc biệt là sau những biến động chính trị dẫn đến những suy nghĩ có phần lệch lạc về những thương nhân nước ngoài này. Và cũng bởi tự những thương nhân Châu Á hầu hết đều không có tính thật thà như những người Nga Xô Viết.
Có một điều nữa là những thương nhân Châu Á đã nhập khẩu cho nước Nga một thứ văn hóa mà vì nó nước Nga mãi lận đận đến giờ: Hối lộ và tham nhũng.
Những con người nước ngoài trên đất Nga ngoại trừ số rất ít có giấy tờ hợp lệ thì đều là giấy tờ giả hoặc giấy tờ đã hết hạn lưu trú. Hầu hết những người giàu đều có giấy tờ hợp pháp, số ít họ còn sở hữu bất động sản, hộ chiếu Nga, con họ mang quốc tịch Nga và được học ở trường công hoặc sau đó sang Mỹ Anh du học. Nhưng phần lớn người còn lại đều là người cư trú bất hợp pháp. Họ chưa chắc đã nghèo (một số ít khá giàu) nhưng vẫn sống trong những căn hộ chung cư đi thuê cùng với nhau để chia tiền phòng, một căn hộ nhỏ tầm 12m2 (giá từ 500-1500$ tùy chỗ) có thể kê đến 5 cái giường tầng và sống 10 người trở lên. Nói cho cùng họ chỉ cần chỗ ngủ! Và thông thường những căn hộ chung cư ấy thường tập trung trong một khu nhà chung cư có bảo kê hết. Chỉ cần bước qua cổng bảo vệ là họ gần như được an toàn. Rất hiếm khi cảnh sát vào những nơi này kiểm tra giấy tờ. Đôi khi những căn phòng ấy có thể sống 3-4 cặp vợ chồng. Và lẽ dĩ nhiên những quan hệ vợ chồng cũng buộc phải thực hiện trong những không gian chật hẹp và đầy người như thế. Có đôi khi tôi đến chơi một nhà nào đấy và rất khó hiểu là vì sao họ có thể sống chật chội như thế khi mà họ giàu có hơn tôi rất rất nhiều. Câu trả lời đã nói ở trên: Rẻ và an toàn.
Mỗi buổi sáng khoảng 5h là mọi người đã phải có mặt ở chợ (cho dù đó là những ngày mùa Đông -20C) – người Nga không bao giờ làm được điều này – và chuẩn bị cho một ngày bán hàng mới với những chuyến xe chứa đầy hy vọng đến từ những thành phố xa chở theo hàng nghìn những người buôn bán lẻ hoặc những đầu nậu cỡ vừa). Những năm 2000 – 2010, theo tôi biết một ngày bán hàng có những người có thể thu đến cả vài triệu Rub (1$ lúc này khoảng 30-35 Rub). Thuế chỗ cho những quầy hàng be bé ở những chợ đầu mối lớn như Vòm hay Liu bây giờ có thể lên đến cả nghìn $ cho một ngày bao gồm mọi chi phí nhỏ lẻ khác. Để mua một quầy có khi phải trả đến 100-500k$ tùy thời điểm mà chưa chắc đã ai bán cho. Có những người bỏ vốn mua quầy rồi cho thuê lại ăn chênh lệch, mỗi tháng có thể thu về cả chục nghìn $. Nhưng việc cho thuê này chủ yếu là các ông chủ lớn làm chứ dân mà có quầy thông thường tự đứng ra buôn hàng luôn vì lợi nhuận buôn hàng gấp vài lần số này trong những mùa cao điểm.
Vì giấy tờ bất hợp lệ, họ dù giàu vẫn sống như những bóng mờ trên xứ này, mọi quyền lợi về mặt pháp luật là không có. Mọi quyền lợi về y tế (trừ cấp cứu với tình huống nguy hiểm tính mạng) là không có. Họ có thể dùng tiền mua cảnh sát nhưng cảnh sát cũng có thể đạp họ xuống tuyết bất cứ lúc nào có lệnh. Và sẽ chẳng ai đòi hỏi chính quyền phải điều tra rõ ràng nếu như một ngày có một bóng mờ nào đó biến mất. Họ chẳng có gì, ngoài tiền! Những cánh rừng phía sau chợ Vòm mỗi mùa tuyết tan lại lộ ra vài cái xác người là chuyện bình thường (VN có, Tàu có, Đầu đen có…) và người ta chỉ đơn giản là gom chúng lại và đốt đi trong các nhà xác thành phố. Có người được nhận dạng, có người không. Và họ sẽ biến mất như chưa hề tồn tại trên cái xứ lạnh này. Ngày mai lại là ngày mới, chợ vẫn ồn ào phức tạp! Với cái dòng chảy công việc mãnh liệt ấy, chẳng mất bao nhiêu thời gian mà họ sẽ bị lãng quên thật sự!
Những phận người xưởng may
Họ là ai? Trả lời cho câu hỏi này lại là một câu hỏi khác: Vì sao họ chọn sang Nga để làm thợ may?
Nga những năm đầu 90 là thời kì của những mặt hàng tiêu dùng. Những dòng chảy đồ dùng với phẩm chất rất Nga là “nồi đồng cối đá” như bàn ủi, nồi áp suất, dây mayso chạy ra khỏi nước Nga ào ạt mà điểm đến có thể là VN, có thể là các nước khác. Máy móc, động cơ cũng là một phần của những chuyến hàng này nhưng số người có khả năng cũng như đủ trình độ để buôn nó thì không nhiều. Nhưng ai làm được thì thời gian đầu lại rất giàu. Dòng chảy hàng hóa ngược lại Nga là áo quần, đồ tiêu dùng (như radio, tivi hay đầu bằng cassette…), những thứ ấy đến được Nga thì lợi nhuận không để đâu cho hết. Một mặt hàng nữa rất được chuộng thời ấy là đồng hồ đeo tay, bất kể là Casio mặt vuông có đèn nền huyền thoại hay chiếc Seiko automatic… sang đến Nga chỉ thua việc cân kí tương đương bằng vàng để mua thì nói hơi quá chứ đúng là cũng kiểu kiểu như thế, tỷ lệ lợi nhuận có thể 1 ăn 10 đến hơn nữa.
Tuy nhiên trong những mặt hàng đó, vài kẻ thức thời đã nhận ra là nhu cầu đối với hàng may mặc là số 1. Dòng hàng chảy liên tục, nhu cầu ngày càng tăng vì sau bao nhiêu năm bao cấp, thời trang đã là một thứ chả ai nghĩ đến. Nhưng mặc đẹp lại là nhu cầu không thể phủ nhận. Mấy mươi năm hình ảnh những bà già Nga ngồi trên cái ghế sofa đan những chiếc khăn choàng màu xám xám với chú mèo nghịch cuộn len dưới chân như một hình ảnh thuần Nga. Nhắm mắt và tưởng tượng nhé: Những căn phòng chung cư bé nhỏ, chiếc thảm treo tường tone màu nóng với vài họa tiết hoặc một bức tranh Nga, những cậu thanh niên quần Tây áo sơ mi, những cô gái mặc những chiếc váy ngắn ngắn, cổ quàng một chiếc khăn nhỏ làm điệu, những chú bé với thời trang mùa hè là chiếc quần short và áo sơ mi, nụ cười rạng rỡ với chiếc khăn quàng đỏ bất hủ, cô bé với chiếc váy nhẹ thêm cái yếm dạng tạp dề, tóc cột chùm nhỏ hai bên và khăn quàng đỏ – dĩ nhiên. Nhận ra chưa các bạn, nước Nga của những năm tháng Xô Viết đấy.
Và lẽ dĩ nhiên, khao khát mặc đẹp nó đã dồn nén quá lâu rồi. Khi ấy những doanh nhân nhỏ bé kia nhìn ra và khuân đến nước Nga cơ man nào là quần áo. Những chiếc quần Jean đáng ao ước mà họ chỉ thấy trên phim bọn tư bản, những đôi giày bóng lộn, những chiếc khăn lụa duyên dáng, những chiếc váy nhiều màu… và hơn hết, những chiếc áo kutka (áo đông) lạ, đẹp và rẻ đủ cho ai cũng có thể mua được… đã cập bến Nga. Hàng quần áo bán đắt như tôm tươi, tôi có ông anh họ kể, có những hôm họ ra chợ bán hàng không kịp thở (bán lẻ thôi) có những thằng Nga đến mua chỉ cần là quần Jean là nó mua, to tý cũng được, chật tý cũng được, chúng nó đã chờ quá lâu để biến cái giấc mơ Jean thành sự thật rồi.
Thế rồi những khu chợ chuyên kinh doanh hàng may mặc ra đời đi kèm với nó là nhu cầu về việc sản xuất tại chỗ để giảm chi phí. Đương nhiên nhân công Nga bị loại đầu tiên. Người Nga sau những năm bao cấp đã nhiễm một thứ gọi là thói quen trì trệ hơn nữa, một cách trần trụi mà nói, họ sẽ không bao giờ làm việc 18h mỗi ngày.
Người VN thì có thể!
Đương nhiên chả ai muốn, họ bị bắt làm thế! Họ, một số ít, trở thành nô lệ cho những đồng bào của mình! Bị buôn đi bán lại, bị kiểm soát chặt chẽ, bị tước hết giấy tờ,… Tất nhiên có khá nhiều điểm sáng trong cái thế giới chủ xưởng may, nhưng cũng khá nhiều những góc tối.
Họ sang Nga thế nào?
Có nhu cầu sẽ có cung ứng. Việc nhập khẩu nhân công Việt khi nó trở nên cấp bách thì sẽ có những kẻ đứng ra làm thôi. Họ được gọi là môi giới. Có kẻ là do các công ty cử đi có kẻ tự lập công ty độc lập… hầu hết đều kết nối với công an hay hải quan Nga nhằm chuẩn bị cho bước nhập cảnh và kiểm soát nhân công sau này.
Thuở ban đầu thì chưa có nhiều xưởng và số thợ của mỗi xưởng cũng không nhiều, thực ra gọi là xưởng thì hơi quá vì lúc ấy mang tính thời vụ và không chuyên nghiệp. Nhưng lợi nhuận từ những đợt hàng đã khiến cho việc mở xưởng trở nên thực sự là miếng mồi ngon. Những kẻ môi giới trở về nước, tổ chức tuyển nhân công với bao lời hứa hẹn về mức lương 200$ hay 300$ (sau này lên 500$, hoặc cao hơn cho thợ lành nghề)… biết bao cô gái chàng trai thanh niên ở quê trở nên điên cuồng vì con số ấy. Lúc ấy vài trăm $ là số tiền không nhỏ tí nào. Ai cũng nghĩ sang đây chịu khó vài năm là có vài nghìn $ vác về. Mà vài nghìn $ khi ấy ở quê mua được cơ man nào là thứ.
Thế là họ ra đi, vay tiền đưa cho môi giới để làm thủ tục, cũng 1–2k$ bảo là tiền khám sức khỏe tiền vé, tiền linh tinh, sau này tăng lên 4–5k$. Mọi người đều háo hức, các bậc trưởng thượng đi khắp nơi khoe với nhau về thằng con đứa cháu sắp đi Liên Xô, lương cao lắm,… hy vọng tràn đầy những ngóc ngách đường làng.
Tôi không chỉ nhìn mặt đen tối, không các bạn lại bảo tôi cứ chê bai nước Nga hay đồng bào mình. Đơn cử tôi cũng biết vài người sang đây may mắn lọt vào vài xưởng khá được, lương trả đầy đủ, điều kiện ăn ở tạm tạm, hàng bán được nên sau vài năm cũng có cái này cái kia. Đợt 2011 có thằng bạn tôi làm nghề mua hàng điện tử cho dân chợ (tức là nếu anh thích con iPhone, anh xem ở cửa hàng giá 25k Rub, em mua trên mạng cho anh giá 22k Rub, em lấy anh 23500 thôi, anh em cưa đôi lợi nhuận, anh mua rẻ hơn, em có tí tiền, em cài hết cho anh những gì anh cần dùng như ứng dụng, đọc báo…) đã trúng mối hàng cho công nhân ở xưởng may đặt mua hơn 15 con iPhone mới nhất, vì sau 1 năm nợ lương lão chủ trúng cú lớn nên trả lương sòng phẳng cho anh em sau khi trừ phí ăn ở – trường hợp cực kỳ cực kỳ hy hữu – mỗi bạn trẻ có gần 3000$, thế là chơi sang 1 anh 1 con iPhone. Đấy tư duy của người làm công cũng chỉ có thế: có tiền thì mua đồ tiêu dùng cho sướng đã, cấm có ai nghĩ đến dùng tiền làm gì khác.
Những trường hợp may mắn phần nhiều là do họ được làm ở những xưởng TRẮNG (có giấy phép) hoặc XÁM (giấy phép 500 công nhân nhưng thuê hơn 2000…). Phần lớn những công nhân khác sẽ vào xưởng ĐEN (không giấy phép). Họ sẽ gặp cú shock cực nặng ngay đêm đầu tiên ngủ lại nước Nga. Sau khi đón ra từ sân bay (hải quan cho đám công nhân này – phần lớn ăn mặc khá quê và dùng hộ chiếu du lịch thời hạn ngắn – sang một dòng riêng để đợi thằng chủ hay bảo kê vào làm thủ tục). Các bạn công nhân đứng chờ 3–4h mới qua cửa là chuyện rất bình thường, hộ chiếu bị chủ thu ngay lúc ấy với lời hứa hẹn để làm giấy tờ, xong anh (chị) trả. Và họ đ** bao giờ dễ dàng trả, ở cái xứ Nga, dân VN mất hộ chiếu chả khác gì con chó bị xích, tuyệt không thể đi đâu quá xa nơi sinh sống, cảnh sát bắt được là rất tốn!
Vừa đói vừa mệt, họ bị đưa lên xe và chở thẳng về xưởng – mà thường là ở thành phố xa, ít cũng cách Moscow 100–200 km không thì còn xa hơn. Thực ra lũ vận chuyển cũng thích đi đêm, như thế họ sẽ vào đến xưởng giữa khuya và sẽ ít bị dân xung quanh để ý. Nơi họ sẽ ngủ lại thường là một góc của xưởng với những tiện nghi rất tệ hại. Giấc mơ Liên Xô sẽ vỡ vụn ngay trong giấc ngủ đầu trên xứ này.
Ngày hôm sau hoặc 1–2 hôm sau họ sẽ được làm quen với xưởng, với những công nhân may ca tối vừa trở về ngủ lúc tờ mờ. Câu chuyện thường ngắt quãng và sớm kết thúc vì những người công nhân cũ kia cũng quá mệt sau một ca thâu đêm. Họ, nếu may mắn, sẽ chưa làm việc ngay mà sẽ được nghỉ ngơi 1 ngày, thậm chí có nhóm còn được gặp và nghe dặn dò vài việc quan trọng từ một vài sinh viên ngành y được chủ xưởng thuê đến hoặc vì là người quen biết (tất nhiên có tiền).
Các sinh viên Y nói về những gì với họ? Đầu tiên và quan trọng nhất là họ cần giữ ấm để không bị phát hiện vết mờ trên phổi, nếu bị đồng nghĩa với về nước. Thứ hai và quan trọng hơn cả, các cô gái xin đừng mang thai! Điều tưởng như buồn cười này lại là điều xảy ra khá thường xuyên và đưa đến rất nhiều bi kịch. Xa gia đình, làm lụng khổ, sự đồng cảm đưa những thanh niên đến với nhau và việc quan hệ tình dục là điều khó tránh. Họ có thể quan hệ ở nhà vệ sinh, sau cánh cửa kho hàng, ngoài trời cạnh bên xưởng, lúc mọi người ngủ say,… mọi nơi và mọi lúc có thể. Ai trong chúng ta trải qua thời thanh niên mà không hiểu cái khát khao xác thịt nó lớn đến thế nào. Nhưng họ, những người mới bước ra từ những miền quê, chưa bao giờ nghĩ đến thứ gọi là tránh thai. Chả ai dạy họ vì đó là điều xấu xa ghê tởm và trái đạo đức theo cái chuẩn mực của cái lũy tre làng. Cha mẹ họ cũng có ai nói đâu vì chắc gì ông bà biết, nếu biết đã chẳng có chuyện nhà họ 6–7 anh em. Thế là họ cứ sướng, sướng, sướng… mọi nơi, mọi lúc cho đến khi những cơn ọe ói đầu tiên báo cho cô gái biết cô ta dính bầu. Mà dính bầu chưa cưới lại cũng là một chuyện động trời mà họ được dạy từ bé trong khuôn khổ đạo đức lũy tre làng. Thế là cố mà giấu, giấu đến khi không giấu được nữa thì cũng không phá được nữa. Mà đẻ ra thì làm sao nuôi khi mà bố mẹ nó oằn mình ra làm 16–18h trong xưởng. Bi kịch bắt đầu từ đó.
Quay về với hoạt động xưởng. Các công nhân sau khi đã biết mình cần làm gì thì bắt đầu làm quần quật, những người mới sang chưa thạo nhưng được cái đang tràn trề hy vọng. Họ cứ làm và mơ đến 2–300$ đầu tiên. Nhưng khi đến cuối tháng họ mới biết 200–300$ ấy sau khi trừ đi chi phí ở và ăn thì chả còn mấy. Bữa ăn của họ nếu mùa hè còn đỡ vì còn có rau người Việt trồng chứ mùa Đông thì toàn bắp cải xào hay cà rốt hay các loại củ nói chung. Bữa ăn mấy trăm công nhân thông thường do một nhóm riêng lo hoặc đôi khi ông chủ phân công công nhân chia ra nấu. Hằng ngày hằng tuần sẽ có những chuyến xe chở thực phẩm một lần cho xưởng. Nói chung ăn thì không đói nhưng cũng chả ra cái gì. Họ, những công nhân mới học việc giỏi lắm thì dư 100$ là cùng. Công nhân lành nghề thì lương cao hơn, có những người được hẳn 500$ sau khi trừ chi phí, những người này luôn là đối tượng giành giật giữa các xưởng.
Lâu lâu xưởng lại bị ĐẬP, tức là có chuyện gì đấy thì công an được lệnh đập, tạo thành tích kiểu như bắt mại dâm mừng 2-9 gì đấy. Khi ĐẬP thì thường bất ngờ và có báo chí quay phim, nhưng khuất sau những thước phim sẽ là mảnh giấy nhỏ một được cảnh sát nào đấy dúi vào tay chủ xưởng về thời gian hôm sau lên nhận lại máy móc tịch thu cũng như người phải liên hệ để có vị trí mới để lập lại xưởng. Mỗi đợt lại trục xuất vài chú công nhân xui xẻo, mất vài chục k$ để lấy lại máy và vài ngày hay tuần để lập lại xưởng và đi vào sản xuất. Lâu lâu thì xưởng ĐEN bị ĐẬP thật và khỏi lấy lại máy, xưởng tan, công nhân tứ tán, có người nhận lại hộ chiếu, có người không. Họ lại tỏa đi sang các xưởng khác nhờ sự giúp đỡ của bạn bè…
Đi học thì sướng, đi làm thì khổ. Thôi viết tý cho các đc ở đây hiểu tình hình nước Nga:
Nga nguy hiểm với người nước ngoài không?
Có, ai bảo không vả vỡ mồm, nhưng tùy thời điểm. Trước 2003 khá phức tạp, tình hình hoạt động của trọc khá kinh, các bác cảnh sát cũng thích vặt của các đc Việt. Mà vì sao, móa, đơn giản vì các anh đék biết tiếng Nga.
A đù, có bác buôn hàng bên Nga hơn chục năm mà hỏi cái đék gì cũng Đa với Nhẹt! Loạn! Nên cảnh sát nó biết có vặt cũng đék biết kiện, vặt thôi! Mà cũng bởi lúc ấy Nga thay đổi nhanh quá, lương công an cảnh sát không đủ sống, dân Việt buôn bán thì giàu quá (ít ra hơn bọn công an lúc ấy nhiều lắm) đôi khi cũng sinh tâm lý bọn mày làm giàu trên nước tao, trong khi tao bảo vệ an ninh cho bọn mày bục mặt ra lương một tháng không bằng bọn mày thu nhập một ngày. Đôi khi thế, thế mới đời!
Rồi cũng phần lớn là do dân mình với bọn Tàu làm hỏng người Nga, trước phần đông nhân viên công vụ Nga khá tốt và thật (nghiêm túc – tầm những năm 70–80). Sau dân mình sang, cái gì cần thủ tục cũng hối lộ cho nhanh, ban đầu thì cái socola, chai rượu, tý xúc xích,… sau thì cái áo len,… dần dần dân Nga ăn quen mõm. Thế nó mới trở nên thế này! Tất nhiên còn nhiều lý do vĩ mô hơn mà không thể nói ngắn được, nhưng góp phần tha hóa người Nga thì đék thể phủ nhận vai trò của ông Tàu và ông Việt!
Nga có tiềm năng kinh tế cho người Việt không?
Trước có, giờ không! Trước hàng tiêu dùng Nga ít, nên cũng phải nói công tâm rằng nhờ VN với Tàu và Thổ mà dân Nga có quần áo rẻ tiền mà mặc, tuy nhiên cái gì đi từ sai trái thì kết thúc luôn tồi tệ. Hầu hết hàng thời ấy đều lậu và fake. Khi nước Nga vượt qua được quãng thời gian khó khăn thì số người ra chợ mua quần áo đã giảm một cách đáng kể. Khi mà mặc đồ hiệu trở thành một dấu hiệu để tỏ ra sành điệu và giàu có thì chợ tạm, chợ trời ở Nga bắt đầu đi vào ngõ cụt. Trong khi đứng trước những thay đổi đó, Thổ và Tàu tìm cách chuyển sang hình thức kinh doanh chính quy thì hầu hết các bác Việt vẫn như con trâu, cứ thế lầm lũi đi tiếp. Cũng đúng, muốn chuyển đổi thì đầu tiên tiếng Nga phải có trình độ nhất định, các bác VN thì cực kỳ kém và thiếu ý thức học tiếng bản địa.
Hơn nữa cái cộng đồng VN bên này nó chán vãi đái, không có tính đoàn kết, hãm hại nhau thì chỉ cần có cơ hội là chơi. Các nhóm nhỏ thì còn than than chứ xu thế của cả cộng đồng thì đíu ra cái gì. Trước còn báo công an để chặn xe hàng của nhau hay xét hàng lậu của thằng khác nữa. Nói chung cảnh sát kinh tế Nga mà nghe nói đến các bác VN thì chỉ có cười khinh. Bọn Tàu thì cực kỳ đoàn kết, bọn Thổ ít chơi ít biết, bọn ấy thì nổi tiếng láu cá và lừa lọc.
Đầu trọc có nhiều không?
Chỉ có hoạt động cực mạnh khi kinh tế Nga đi xuống. Như năm 2003 hoạt động mạnh, mấy năm sau kinh tế khá ít trọc hẳn. Năm 2008 oánh Gru kinh tế mùa hè năm ấy rớt thảm, ngay năm sau trọc đã lại xuất hiện và hoạt động mạnh trở lại. Sau đó từ cuối 2010 đến giờ rất ít nghe thông tin về trọc. Không biết sau vụ cấm vận của EU thì thế nào? Dù sao có lần một cụ giáo hỏi mình: “Mày biết sao bọn tao thắng được Phát xít không? Vì khi cần bọn tao còn phát xít hơn cả phát xít!”
Thế hệ thứ 2 ở Nga thế nào?
Nói chung là tiếp xúc nhiều cũng thấy, đứa thì tồ, đứa thì láu cá, có đứa còn cực ghét Việt. Tùy giáo dục từng gia đình. Nói chung, gia đình nào mà bố mẹ quan tâm con cái thì cũng đỡ. Tỷ lệ rất ít chúng nó hòa nhập thực sự và muốn ở lại Nga (khác hẳn so với đám ở Mỹ hay Phần Lan,…). Phần đông đều không thực sự muốn phát triển ở Nga hoặc tiếp nối và phát triển sự nghiệp kinh doanh của bố mẹ – tình hình chung, gia đình nào cũng muốn con học toán, y như VN, nhưng rất ít đứa học đại học đàng hoàng. Mấy năm gần đây thì có xu hướng các cụ đưa con cháu sang Mỹ và châu Âu nhiều. Nhiều nhà cũng đã tính chuyện định cư luôn.
Những ghi chép từ một SV làm thêm
Chuyện thứ nhất: Những cặp vợ chồng lạ lùng.
Lần đi làm thêm đầu tiên của tôi là dạy vi tính. Đó là một công việc lạ vì ở năm 2003, máy tính vẫn còn là cái gì đó khá xa xỉ và ít tác dụng với người VN (thời ấy các báo điện tử chưa nhiều cũng như chưa đa dạng, người VN chủ yếu dùng máy để xem phim, chơi game, chat YM). Học vi tính là một nhu cầu cần thiết nhưng việc thuê thầy lại là một chuyện lạ vì thường họ học qua nhau.
Nhận thông tin từ một anh trong KTX có di động (thời ấy – 2003 – di động với SV là khá đắt). Nhận đầy đủ thông tin người cần học, địa chỉ và số phòng. Người học là nữ, mình nghĩ là học sinh, muốn học để biết dùng vi tính. Đến ngày hẹn mình ăn mặc sạch sẽ và đi đến nhà người muốn học. Trái với tưởng tượng, người đón mình là một phụ nữ khoảng hơn 30, cao và khá gầy. Chị bảo vào uống trà để thỏa thuận việc dạy và học. Đó là một căn hộ hai buồng khá tươm tất nằm gần metro. Thông thường để thuê được căn hộ như thế ở một nơi như thế thì họ phải là một gia đình làm ăn được. Tách trà chị mời cũng là một loại tách khá sang. Qua câu chuyện, chị nói muốn biết cách mở máy, dùng máy, xem internet, chat… Thế thì quá dễ dàng đối với mình.
Đầu tiên là mở máy, khi chiếc nút nguồn được bật, mình bắt đầu nói sơ về những nút trên case, nguồn, reset các kiểu. Chị cũng có ghi chép lại khá kỹ. Cái cách chị cầm bút và ghi nhanh cho thấy có lẽ chị cũng không phải đơn giản là người xuất thân lao động chân tay. Khi vào màn hình chính thì một tình huống khá ngượng làm chị em cũng ngại. Ảnh nền là một em Tây mặc bikini ngồi xổm bên cạnh một cái moto, cái kiểu ảnh sexy Âu Mỹ ấy hình như là khá mốt tại thời điểm đầu những năm 2000. Chị cũng hơi ngại và bảo cái này anh làm, chị cũng không biết. Quên chưa nói, ảnh chụp vợ chồng thì anh chồng khá phốp pháp, bặm trợn nhưng không hiểu sao tôi vẫn thấy nét trí thức chứ không phải dân xã hội.
Tôi dạy ngay cách bật My Computer, thực ra là để cái cửa sổ nó sẽ choán hết màn hình cho đỡ ngượng. Quả thật, lúc ấy cũng xẹt qua đầu là không biết bà này có muốn nuốt mình không nữa. Sơ lược buổi đầu mình cũng chỉ muốn dạy chị ấy mở máy, tắt máy, lưu tập tin, xóa, lập thư mục,… và những cái ấy chị ghi chép khá đầy đủ. Bảo chị về nhà thử lập thư mục tên gì, lưu file gì,… cho quen, hôm sau em dạy dùng internet. Rồi nhận tiền về, thời điểm ấy, 1,5h dạy nhận khoảng 10$ (300 rub).
Hôm sau tôi đến, chị có vẻ chờ khá lâu. Chị bảo tôi ngồi chơi rồi chị đi pha trà. Tôi bật máy, màn hình nền vẫn thế. Không có chị tôi đỡ ngượng và nhìn kỹ màn hình thì thấy, thực ra ngoài những cái mặc định thì chỉ có vài cái shortcut cho game, giờ thì cũng chả nhớ đó là game gì nhưng tuyền chỉ có game.
Tôi mở thử IE (thời đó tôi cũng chỉ biết dùng IE làm trình duyệt chứ chưa nghe nói tới Mozila hay FF, còn Chrome thì mãi sau này). Khi gõ thử vào address chữ “y” để vào Yahoo (nói luôn là tìm kiếm Yahoo thời ấy hình như là duy nhất với SVVN) thì nó hiện ra một lo một lốc các tên trang web đã vào có chữ “y” và rất nhiều trong đó có liên quan đến “cõi tt”. Tôi mới chợt nhận ra hình như ông chồng chị rất hay vào đấy. Thử kiểm tra history thì thấy đúng là thế thật. Đang lúc kiểm tra history thì chị đã bưng trà đứng sau lưng lúc nào không biết. Mình cũng giật mình. Chị thấy mình bối rối nên cũng thở dài một cái. Sau đó, buổi học thứ hai trở thành buổi nói chuyện giữa hai chị em. Chị kể rằng chồng chị không biết nghe ai nói nên mua về một cái computer, nói là để học này kia nhằm làm sổ bán hàng, nhưng chị biết anh chỉ dùng nó tìm kiếm nội dung đồi trụy và chat với những cô gái không quen. Câu chuyện nó cứ lê thê thêm một chút và chị cứ nói như thể chị cần người để nói. Mình thì ngượng nên cũng không dám nói gì. Cuối cùng tóm lại chị thú nhận là muốn học vi tính để biết ông chồng xem cái gì, chat với ai. Mình bảo là xem cái gì thì em chỉ chị, chứ chat với ai thì em không biết cách dò pass YM của anh ấy đâu. Em chịu. Thế rồi mình dạy chị cách xem history và ra về với 300 rub nữa. Sau ấy mình không đến nữa vì thực ra là không muốn dính vào chuyện nhà người ta.
Một lần khác, khoảng 2007 mình đi dạy thêm cho một thằng cu lớp 5. Mọi chuyện sẽ rất tuyệt (vì họ trả đến 20$) một buổi 2h, gần gấp đôi nhà khác. Sẽ chẳng là gì nếu như không phải mỗi ngày mình đến dạy ông con thì ông bố nó lại cứ 5p một lần. Lão ấy chơi Game online, trò MU hay sao ấy, giờ lâu quá cũng khó nhớ. Nhưng đúng là mình đến bất cứ lúc nào cũng thấy lão đánh game và hô ĐM. Ông con bảo bố cháu chẳng đi làm gì, toàn ở nhà chơi, mẹ cháu đi làm hết. Nếu nói về mặt ngoại hình thì đó là một cặp vợ chồng khá chênh lệch. Lão chồng cao, trắng đẹp như công tử HN, bà vợ chắc chưa đến 1,5m, người tròn, mặt cũng tròn, môi dày mũi đầy. Nói luôn là chị xấu. Đôi khi tôi đang dạy thằng con, chị từ chợ về, tôi thấy cái cách mà chị nhìn lưng của chồng khi chị đứng cởi cái áo đông nặng trịch ra nó cứ buồn đến lặng cả người. Lão chồng chỉ hỏi được một câu trống không như kiểu về rồi à, hôm nay ăn gì? Kiểu kiểu thế. Chị xắn tay áo làm cơm, lão chồng vẫn gác chân lên bàn tay di chuột đồ sát. Ai đã từng cảm nhận cái mùa đông nước Nga sẽ hiểu sự mỏi mệt sau một ngày đứng ngoài trời giá rét, chợ Võm khi ấy không như Liu sau này, nó chỉ có một dạng mái vòm mỏng giúp chắn bớt tuyết chứ không chắn được những cơn gió thốc buốt luồn giữa những dãy sạp hàng. Nhất là chị lại là phụ nữ!
Có lần mình dạy thêm ở một căn hộ trên khu chung cư dành cho nhân viên ĐSQ. Nói là nhân viên thì cũng trăm loại nhân viên, bà quét rác sứ quán cũng là nhân viên. Thông thường mỗi người được 1 suất căn hộ ở đấy, căn hộ 2 buồng. Họ sẽ ở buồng to, buồng nhỏ cho dân ngoài thuê giá khoảng 4-500$/tháng cho căn buồng 9-12m².
Lần ấy dạy cho con của bà nhân viên. Căn buồng nhỏ được hai người thuê, bà chủ bảo họ là vợ chồng. Lão được gọi là chồng chắc hơn mình 3-4 tuổi, là dân NCS (thế mới sợ) còn bà vợ hơn lão này ít cũng 1 giáp. Bà già hơn hắn nhưng nhìn khá xôi thịt. Bà yêu hắn, cái đó chỉ cần nhìn cách bà rướn lên phủi phủi tuyết đọng trên vai áo hắn khi cả hai vừa ở ngoài vào là biết. Hắn không yêu bà, nhìn cái cách hắn khó chịu khi việc phủi tuyết của bà bị mình liếc thấy là biết. Thế mà họ vẫn sống với nhau trong một căn buồng. Cho đến một ngày mình đang dạy thì thấy bà xộc về, vào phòng. Tiếng động trong phòng cho thấy bà đang lục lọi gì đấy, lúc sau bà khóc, tiếng khóc to dần. Hôm sau mình đến, dạy xong ông bà chủ bảo ở lại ăn cơm. Trong bữa ăn mình hỏi dò thì bà chủ sẵn đang bức xúc nên kể hết. Thằng kia đã có vợ con ở nhà, mà hắn có đẹp đẽ gì, được cái dẻo mỏ. Học NCS nhưng suốt ngày lân la ra chợ tìm cách đi buôn, nhưng lại kẹt xỉ, thế là chẳng ai muốn cho chung chạ gì. Thực ra, vốn của lão chẳng đáng gì để mà dân buôn thèm để ý, cái chính là lão kẹt xỉ quá nên chẳng ai muốn chơi chung. Thế nào lão gặp bà, bà dù đã qua tuổi xuân sắc, gia đình cũng lại đổ vỡ. Chồng trước của bà vì giàu lên quá nhanh nên lao vào bài bạc, cuối cùng những gì gom góp được mất tất, lão bỏ bà lại với cục nợ rồi trốn về VN. Sau nghe bảo đi đào vàng, rồi bật tin. Bà coi như lão đã chết.
10 năm lăn lộn bà cũng hết nợ, rồi cũng đã qua cái tuổi khỏe mạnh và khát khao, bà bằng lòng với việc kinh doanh lặt vặt hiện tại, thu nhập tròm trèm 1-2k$ hay hơn một chút cho mỗi tháng. Nếu khéo vẫn để được ít nhiều gửi về nuôi con. Quên kể sau khi lão chồng chạy thì bà có đứa con nhỏ trong tay, phải gửi con về VN để cày trả nợ, hơn chục năm cả gặp được nó mấy lần.
Thế rồi bà gặp hắn, chẳng hiểu bà tìm thấy ở hắn cái gì hay những lời dẻo mỏ của lão kích trúng cái khát khao đàn ông đè nén chục năm nay. Bà lao vào hắn dù biết hắn có vợ con ở nhà. Hai người dọn vào sống chung, nhục một cái khi trả tiền cọc thì hắn viết hợp đồng bảo hắn góp 1 nửa, bà 1 nửa, tính ra một người khoảng 1,5k cọc thuê nhà. Nhưng khi góp tiền hắn bảo hắn không đủ bà cho hắn mượn tạm. Và đương nhiên hắn không trả. Cho đến cái ngày hắn đá bà, hắn lại đưa cái giấy hợp đồng ấy ra và bảo bà nợ hắn 1,5k tiền cọc, còn chuyện hắn mượn bà đóng thì chẳng có gì làm chứng. Bà chửi hắn, hắn bảo hắn đã lấy tiền dưới gầm tủ của bà rồi, bà không cần trả nữa, rồi hắn bye bye bà. Đó là lý do bà chạy về kiểm tra gầm tủ rồi khóc ngày hôm trước. Tôi nghĩ bà không phải tiếc, 1,5k đối với lão NCS kia có thể lớn chứ với dân làm ăn, kể cả làm ăn bé như bà, nó cũng chẳng là cái gì. Có lẽ bà khóc vì tức, vì tủi cho cái phận của mình. Những tiếc nấc nghe của bà mãi sau này đôi khi tôi vẫn nhớ. Sau một thời gian tôi cũng nghỉ dạy và cũng không gặp lại bà lần nào.
Một lần khác tôi nhận được mối mua máy vi tính từ một người đàn ông. Thỏa thuận xong tôi mang máy đến giao thì lão mời tôi ở lại uống ly bia. Lần đầu trong đời uống bia với ngọc kê luộc (ở bên này các bộ phận này họ bán theo kg). Đang uống thì vợ lão về, sa luôn vào uống bia và nhai ngọc kê rau ráu. Nói thật thấy một chị phụ nữ bỏ hòn ngọc kê vào rồi cắn nát nhai rau ráu, tôi cứ thốn thốn. Sau ăn cũng chẳng vào. Chị ăn nhanh, uống cũng nhanh rồi cũng hỏi han tôi đủ kiểu. Thành ra việc giao máy đáng ra 15p thì nó lại kéo ra đến hơn 5h đồng hồ ăn nhậu. Trong câu chuyện hai anh chị cũng kể thì ra họ cũng chẳng phải vợ chồng, lão có vợ, chị có chồng, chỉ là vợ chồng họ ở VN cả. Sang đây xa nhà thì ghép với nhau. Có lẽ vì nhu cầu, có lẽ vì điều gì khác nữa thì không biết. Lão mua máy để chị chat với chồng con ở VN, con chị đã 8 tuổi, và nó có nhu cầu nói chuyện với chị. Nên để cẩn thận, phòng chị không có móc áo trên tường để đề phòng lỡ quên móc quần áo đàn ông lên đấy khi chat con chị có thể thấy. Còn lão thì bảo vợ chồng lão cưới nhau nhưng không có con, chẳng biết tại ai. Lúc ấy vợ chồng nghèo, xóm giềng lại cứ lời ra tiếng vào vì chuyện con cái thế là lão làm liều đi mẹ nó sang Nga làm đầu bếp cho cái quán ăn nhỏ ở thành phố xa, sau quán dẹp, lão lưu lạc lên chợ Võm rồi làm lặt vặt cuối cùng cũng có việc làm ăn nhỏ bán vài thứ vặt vãnh và sống đến giờ. Lão bảo cả tháng lão mới gọi về cho vợ một lần, vợ lão chẳng biết quái gì về internet cả mà cơ bản là xa nhau lâu quá, cũng chẳng còn gì để nói với nhau. Họ vẫn là vợ chồng vì họ chưa bỏ nhau. Vậy thôi!
Còn nhiều lắm những cặp vợ chồng lạ lùng trên cái xứ này. Có rất nhiều gia đình thành công và hạnh phúc, có nhiều gia đình chỉ được một trong hai điều ấy. Có gia đình sau khi giàu lên (giàu lắm ấy) thì lão chồng bắt đầu tăm tia gái. Chắc ai sống ở Mos mà từng tham gia ba cái hội đồng hương, mấy chương trình ca nhạc có ca sĩ hoa hậu trong nước sang thì cũng chẳng lạ gì mấy em hoa hậu hay ca sĩ ấy trước và sau khi biểu diễn thường là được bố trí ở phòng riêng ở khách sạn chứ không chung với ai. Tôi thì tôi biết có ít nhất 2 hoa hậu một người rất cao và một người rất xinh từng sang đây phục vụ đại gia. Và một ca sĩ rất bốc đã từng được khen là gái ngoan nhưng sau có chụp một bộ ảnh sexy cho NAM Magazine cũng từng sang đây chung với đoàn nhưng khi diễn xong đoàn thì về còn cô ở lại thêm 1 tuần đi du lịch, ai chả biết cô du lịch với ai!
Có cặp còn chẳng bao giờ muốn nhìn mặt nhau dù sống trong một mái nhà. Cái xứ lạnh này như một mỏ tiền cho những con người chăm chỉ, thông minh và chịu làm việc. Nhưng cái xứ lạnh này cũng là nơi người ta tự tay phá bỏ đi rất nhiều giá trị thuộc về đạo đức hay tinh thần. Có những gia đình rạn vỡ, có những gia đình chất đầy sự hận thù lẫn nhau, có gia đình đầy ắp tiếng cười và sự yêu thương nhưng cũng có những căn phòng mà mỗi người lại cô đơn một kiểu.
Tiếng Nga trên đất Nga
Thật lạ là với những con người đã lăn lộn ở nước Nga này hơn chục năm (cá biệt có người hơn hai chục năm) tiếng Nga vẫn là một rào cản không thể vượt qua. Mỗi ngày của họ đều là lăn lộn giữa những thùng hàng và những lo toan nhập và xuất. Tiếng Nga mà họ nói chỉ là vài chữ Davai (làm đi, đi đi,…), idu (đi bộ chia cho ngôi thứ nhất) cho mọi ngôi nhân xưng, những con số pít-sót, sem-sót (500, 700…), ya, tưi (tao mày) cho mọi cách, mọi thì. Giống, thì và cách như chưa bao giờ tồn tại. Thật lạ là cái thứ tiếng Nga ấy khi bước vào chợ ai cũng hiểu. Và họ trao đổi với nhau hồ hởi thân thương bằng cái thứ tiếng Nga lạ lùng ấy mỗi ngày.
Nhưng bất cứ khi nào bước ra khỏi cổng chợ, cái thứ tiếng ấy, như một lẽ đương nhiên, không còn được ai chấp nhận. Họ trở thành những người câm múa may.
Rất nhiều trường hợp chỉ có tiếng Nga chuẩn mực được chấp nhận. Va quẹt xe bên này mà va quẹt xe có hỏng hóc là hai bên xuống xe, mỗi người gọi cho bảo hiểm và sẽ có người gọi cảnh sát, nếu không sai, xe sẽ được bảo hiểm chi trả tiền sửa sau khi bảo hiểm nhận được biên bản cảnh sát xác nhận lỗi không thuộc về người mua, cũng có loại bảo hiểm họ trả kể cả khi mình sai, nhưng loại ấy đóng nhiều tiền hơn. Khi cảnh sát đến sẽ đưa cho mỗi bên một bản tự khai để mô tả tình huống tai nạn, lúc ấy là lúc tiếng Nga chính quy cần xuất hiện. 2-3000 r cho một lần kê khai, có khi rẻ hơn, có khi đắt hơn tùy ai là người được gọi và tùy xem ông bị tai nạn gà tới đâu.
Khi đổ bệnh, mà thường là nặng chứ bệnh nhẹ nào dân mình chẳng tự chơi kháng sinh với dầu gió tự chữa, cần đến bệnh viện, tiếng Nga lại là thứ phải trả tiền. Một sinh viên Y khoa nào đó sẽ được gọi làm phiên dịch cho họ. Một ngày ít cũng 50$ trừ mọi chi phí. Lúc ấy 50$ với sinh viên to lắm. Khi cần mua hay bảo hành đồ điện tử cũng cần tiếng Nga. Khi mua sắm máy móc và nguyên vật liệu xưởng may cũng cần tiếng Nga. Có lúc sinh viên được gọi, có lúc là dân chuyên nghiệp.
Dân chuyên ở đây là những người từng là phiên dịch cho đoàn xuất khẩu lao động cũ những năm 80 hay các sinh viên cũ thời ấy còn lưu lạc xứ này. Tôi thấy lạ một điều là rất nhiều người như thế lại không giàu dù họ nói thứ tiếng Nga chuẩn mực. Sau tôi mới hiểu họ thiếu hai thứ rất quan trọng để làm giàu ở xứ này: sự dữ dằn và máu liều. Và hơn hết tôi cảm nhận được trong tiềm thức họ chứa đầy sự khinh thường với lũ con buôn dốt tiếng Nga. Làm sao họ giàu được khi mà họ lại ghét người giàu đến vậy. Làm sao họ giàu được khi mỗi lần ăn uống với dân buôn họ đều gân cổ nói để tỏ ra mình hiểu biết, thông minh, điều đó làm dân buôn không hề thoải mái.
Tiếng Nga ở xứ này cũng là thứ phải trả tiền mới có. Không chỉ con buôn mà cả các nghiên cứu sinh. Đó là những người ngoài 30, hầu hết từ các trường đại học phía Bắc. Họ sang đây mưu cầu một mảnh bằng khi mà nước Nga là nước duy nhất họ có thể đi mà không cần chứng chỉ ngoại ngữ. Họ sang đây, lây lất mấy năm, tiếng Nga không bắt kịp để trò chuyện thông thường với giáo sư hướng dẫn. Khi không thể chịu đựng được nữa giáo sư cho họ bệnh viện. Luận văn họ đương nhiên không thể tự viết, đó là khi dân cực chuyên có việc làm. Giá cực đắt, có thể lên đến hơn 10.000$ cho một luận văn hơn 100 trang. Không sao, sau khi thành công họ sẽ vặt sinh viên gỡ lại. Thực ra tôi vẫn cho rằng ở đâu không biết chứ ở Nga, nếu muốn học nghiên cứu sinh, ít ra anh cũng phải từng tốt nghiệp đại học ở xứ này. Có như vậy tiếng Nga mới tạm đủ. Còn tốt nghiệp đại học trong nước rồi sang đây học PhD toàn bị tiếng Nga đánh gục.
Khu Sứ Quán
Tôi đến đó không biết bao nhiêu lần, nên thực sự mà nói tôi nhìn được khá nhiều điều rất lạ từ đó! Nơi này được mang tiếng là khu nhà của nhân viên ĐSQ VN, nghĩa là các nhân viên ngoại giao. Nhưng quả thật chẳng mấy người ở đấy thể hiện được tố chất hay phẩm chất người làm ngoại giao. Tôi không vơ đũa cả nắm nhưng đúng là ở xứ Nga, những người mà tôi thấy có nét và cách hành xử đúng chất ngoại giao là quá hiếm.
Đó là một căn nhà cao tầng nhỏ nằm trong một khu chung cư cao tầng (tôi gọi nó cao vì nó có thang máy, nhà dưới 5 tầng không có thang máy) được xây với nét Nga thời cuối Xô Viết. Ở giữa là một sân chơi cho trẻ em. Quả thật, nước Nga đã từng trải qua nhiều thăng trầm, nhưng dường như trong những lúc khó khăn ấy, trẻ em luôn là đối tượng được quan tâm. Hầu như rất dễ để tìm thấy một khu vui chơi bé bé với cầu trượt, bập bênh, xích đu dành cho trẻ em giữa những tòa nhà chung cư xây san sát. Trẻ em ở cái xứ này chưa bao giờ thiếu không gian để chơi đùa.
Căn nhà có 4 cửa với mã số chung. Trong đấy chưa đến 50% thực sự là nhân viên sứ quán, có kha khá khách thuê nhà. Lâu lâu lại có một đoàn khách trong nước sang, có khi cũng ghé vào đấy ăn uống. Người Việt chúng ta chỉ cần đứng với nhau thành một nhóm thì chẳng lẫn đi đâu được, ồn ào, vô tư reo rế, cười đùa ngắt nhéo nhau dù đó là một nhóm người đi buôn hay nhóm những nhân viên công vụ sang đây công tác. Mớ hỗn độn âm thanh ấy luôn là điểm chung. Họ cứ réo lên, cười sỗ sàng lên như thể sợ người ta không biết mình là người Việt. Thật ngại!
Cứ chiều chiều là đều đặn có lũ con nít VN chạy xuống chơi ở cái sân bé ấy, phần lớn chúng nói với nhau bằng thứ tiếng Nga rất chuẩn. Rất ít đứa dùng tiếng Việt để trao đổi. Vì từ bé chúng đã sống với Tây, khi còn bé nhiều đứa sống với người trông trẻ người Nga (các bà già nghỉ hưu hoặc phụ nữ trung niên nghỉ hẳn ở nhà trông trẻ cho người VN), lớn chút thì đi nhà trẻ Tây, đi học trường Tây. Bố mẹ chúng thường cũng chiều muộn mới về, ăn bữa cơm hỏi nó được vài câu thì lăn ra ngủ. Vẫn có vài gia đình dù đi buôn nhưng rất quan tâm việc học của con, yêu thương dạy dỗ con rất đúng mực, nhưng số ấy ít thôi. Và những đứa trẻ ở đây hầu như nếu đem cái chuẩn mực đạo đức VN thì đều không ngoan. Nhưng ai dám bảo cái chuẩn mực ấy đúng. Lũ trẻ ở đây khá láu, ít đứa khờ, khá thông minh, vài đứa khôn vặt từ bé, con gái thì phổng phao sớm, thích chưng diện nhưng cũng có vài đứa khá chân phương. Nói chung đủ cả nhưng có được cái là tôi thấy rất ít đứa đeo kính cận và hầu hết về mặt sức khỏe đều tốt.
Khu nhà người VN không ít lần bị cư dân địa phương viết đơn than phiền, tố cáo lên cả cảnh sát khu vực vì nhiều lý do: ồn ào, lũ trẻ phá phách, mất vệ sinh,… Nhưng rồi đâu cũng vào đấy. Khu nhà này không ít lần chứng kiến những vụ cướp tiền rất táo tợn, dù nó là khu ngoại giao và cách đồn cảnh sát chỉ khoảng 100m. Ở đây có nhiều người làm dịch vụ chuyển tiền đen (đóng vai trò trung gian trong hoạt động điều phối ngoại tệ trong nước và Nga cho các con buôn với chi phí thấp hơn dịch vụ ngân hàng, phí cho vay cao hơn ngân hàng nhưng không cần chứng minh tính hợp pháp của việc lưu trú của người đi vay).
Có những hôm có người nào đó vác tiền mặt về nhà, vừa đến cửa khu nhà, đang dừng xe thì ngay lập tức có một chiếc xe khác trờ sát tới, và vài đứa to cao (Nga hay Thổ đủ cả) nhảy ra. Nhẹ thì một đứa uy hiếp, bọn kia mở cốp lấy vali hay túi tiền, nặng thì nó tấn công trước rồi cướp. Kịch bản cướp rất quen và cực kì ngắn ngủi, đôi khi chưa đến 1 phút. Người có kinh nghiệm sẽ không bao giờ tỏ ý kháng cự! Ai cũng hiểu nếu bị cướp có nghĩa là đã có thằng nào đó bán tin cho bọn này (tất nhiên lũ báo tin cũng hầu như toàn người VN). Vì không phải ai cũng biết ngày hôm đó người ấy sẽ mang tiền về! Và hầu như đã cướp là chính xác đúng người, đúng hôm mang tiền! Chỉ có 1 lần có một người bị cướp 2 chai nước mắm vì đúng hôm ấy lão mua 2 chai nước mắm bỏ trong cái giỏ quen dùng đựng tiền rồi về. Về đến cửa thì bị cướp cái giỏ. Chả hiểu thằng cướp nó có suy nghĩ gì khi mở cái giỏ ra?
Khu nhà này trải qua không biết bao năm thăng trầm với người VN. Nó chứng kiến rất nhiều giai đoạn, từ cái khi những thùng hàng nồi cơm điện dây mayso của các chú Sứ đặt đầy sân đợi chở ra ga cho đến những năm tháng sân nhà toàn xe hơi đắt tiền đậu. Nó chứng kiến bao nhiêu là số phận con người, bao nhiêu là gia đình hạnh phúc cũng như vỡ vụn trong vòng xoáy của một giai đoạn nước Nga lạc lối! Nhiều đứa trẻ lớn lên ở đây, bao nhiêu đứa còn hoài niệm về khoảng sân nhỏ sạch sẽ và ồn ào ấy?
Tôi đã đi qua khu nhà này biết bao nhiêu lần, có đôi khi đến đây cũng giúp nguôi ngoai đi cái nỗi nhớ về một góc phố VN ồn ào và lộn xộn mà tôi đã xa quá lâu rồi.
Nước Nga của những tình yêu vĩnh cửu
Trời tuyết rơi nhẹ, kiểu thời tiết điển hình của nước Nga những ngày đầu Đông. Tuyết như những hạt cát biển trắng tinh rơi nhè nhẹ, khẽ lăn trên vai, khẽ đọng trên mũ hay găng tay. Đường phố hơi ướt, cái cảm giác bước chân cứ bèm bẹp khi đi bộ trên hè đường trong những ngày này không dễ quên nếu phải rời xa nơi đây. Hè đường nước Nga thường rất sạch và tuyệt đối không có quán nhậu nào cả. Kể cả mùa Hè.
Leo lên xe bus ra metro. Chiếc xe bus êm êm bắt đầu lăn bánh, xe bus xứ này không được đúng giờ như Châu Âu, không xinh xắn hiện đại như Nhật Hàn nhưng vẫn tốt gấp trăm lần Việt Nam. Không có lơ xe, không có phóng nhanh vượt ẩu, rất ít bấm còi và rất ấm; mùa Đông đang đứng run cầm cập ở bến mà leo lên được xe bus thì sướng phải biết. Đối diện là hai vợ chồng già đang ngồi. Chiếc xe ôm cua, bà già hơi bị ngả người sang một bên, bàn tay bà vội níu lấy tay chồng để giữ thăng bằng. Ông chồng mỉm cười rất tình cảm rồi lấy một tay vỗ vỗ lên tay bà lão, như kiểu trấn an rằng có tôi đây. Cái nụ cười của ông lão và cách vỗ về nhẹ nhàng ấy rất tình.
Ở cái xứ lạnh này, không biết bao nhiêu lần tôi thấy những cặp vợ chồng rất già vẫn còn nắm tay nhau đi dạo dưới những tán cây, trong khu rừng hay trên những con phố ồn ào náo nhiệt. Họ hạnh phúc, chậm rãi sống và yêu nhau như thể những gì hỗn loạn và bất ổn trong xã hội Nga hậu cải tổ không hề liên quan đến họ. Tôi nghĩ đối với họ, Tintin hay Med có là tổng thống hay không cũng chả quan trọng. Thế giới của họ chỉ có người bên cạnh mới là thứ quan trọng nhất.
Nhưng nước Nga cũng là nước mà theo báo cáo thì số vụ bạo hành gia đình đứng đầu Châu Âu. Đó là sự thật. Bất cứ ai ở chung tòa nhà với Tây cũng thấy vài lần những tiếng tru tréo và đập phá vang lên từ một trong những căn hộ xung quanh. Cách mà cảnh sát Nga xử lý mấy vụ này cũng giống Việt Nam: để vợ chồng nó tự xử, nếu có án mạng thì làm mạnh, còn vài cái bạt tai thì kệ thôi, chen vào làm gì. Nên họ vẫn đánh nhau!
Đôi lần thậm chí ngay giữa đường vẫn có cảnh họ bạt tai nhau, xô đẩy nhau cả nam lẫn nữ. Và cũng không phải nạn nhân nào cũng là đàn bà. Tôi biết có một ông phiên dịch người Việt Nam từng bị con vợ Nga đuổi ra đường, vì lão nghèo, để dẫn một thằng Nga khác về nhà ngay đêm ấy. Cho dù giữa họ đã có một đứa con. Đàn ông nghèo ở đâu cũng ít được tôn trọng. Qua rồi cái thời xã hội coi trọng kẻ sĩ bần hàn. Bây giờ anh giàu anh nói gì cũng đúng, anh nghèo thì cúi cái đầu xuống mà làm việc đi.
Nước Nga đã từng chìm trong vodka và những lời than vãn. Có cả một giai đoạn mà rất nhiều người Nga chỉ muốn nốc vodka rồi khóc cho số phận mình và những người đồng chí cho đến khi thiếp vào giấc ngủ. Rồi tỉnh, rồi uống. Đã có những sắc lệnh nghiêm khắc ban ra để cấm rượu, nhưng đã muộn khi mà những kẻ nghiện đã qua nhiều. Có thời khi lệnh cấm quá căng và giá rượu chợ đen quá cao, người ta từng thấy người nghiện mua cồn hoặc nước hoa rẻ tiền về pha loãng để uống. Những ngày tháng nước Nga lúc nào cũng chuếnh choáng say, kể cả vị tổng thống của họ cũng từng nhiều lần say trong các buổi họp.
Hậu quả của những ngày ấy thể hiện khá rõ trên những đứa trẻ được sinh ra từ những bà mẹ say mèm. Nhiều đứa bị dị tật, bị kém phát triển đã được sinh ra. Trên đường nếu để ý, những đứa trẻ ấy không hề hiếm gặp. Có điều xã hội và người Nga cũng rất ít khi tỏ ra dè bỉu những đứa trẻ đáng thương ấy. Người Nga, nhất là người già, ở góc độ nhân văn khá gần với các công dân ở một xã hội phương Tây phát triển điển hình.
Còn giới trẻ, cũng không hẳn họ không tốt, rất nhiều thanh niên như mấy thằng bạn đại học của tôi vẫn còn nét Ivan xưa, nhưng cũng khá nhiều trong số họ sống có chút gì ích kỷ hơn, cá nhân hơn. Họ ít nhường ghế cho người già trên metro hay xe bus, họ thực dụng hơn khi mà khá nhiều cô gái Nga cặp với các anh da đen lắm tiền (không có ý phân biệt nhưng tôi biết trong số các cặp đôi ấy những cặp đến với nhau vì yêu đương không nhiều). Đó âu cũng là hệ quả của một giai đoạn khủng hoảng niềm tin ở cái đất này, người ta đã ít tin hơn vào sự tử tế. Như giới trẻ Việt Nam hiện nay cũng vậy!
Giữa những nét buồn của cái nơi nửa năm trời phủ tuyết này thì hình ảnh những đôi vợ chồng già tay trong tay trở thành một trong những điều khiến người ta cảm thấy cái xứ sở này ít nhiều gì cũng từng rất đẹp và tử tế.
Những đứa trẻ thế hệ chuối
Gọi tụi nó là “chuối” là mượn lời bác Ngạn khi nói về thế hệ thứ hai ở Mỹ với ý nghĩa là ngoài vàng trong trắng. Vẻ bề ngoài tụi nhỏ vẫn là da vàng, vẫn là cái giống VN con Lạc cháu Hồng nhưng bên trong tâm hồn chúng nó đã là lũ Tây mũi lõ rồi!
Người Việt Nam di cư, như mọi nơi trên khắp cái thế giới này, như mọi con người từ Châu Á nói chung mà điển hình là các bạn Tàu thân thiết. Như nhau cả, đều là những con kiến chăm chỉ làm việc, từ sáng đến tối, tay chân luôn bận rộn để kiếm về những đồng tiền từ ít đến nhiều. Những người Châu Á di cư luôn mang trong lòng chút gì đó nuối tiếc về quê hương và khao khát đổi đời. Có thể tại quê hương họ cũng đã là người giàu, không lo ăn mặc, cũng có thể họ rất nghèo đến nỗi vài trăm $ cũng là niềm mơ ước trăn trở trong mỗi giấc mơ.
Tựu chung, họ nhìn thấy nơi đất khách những niềm hy vọng lớn. Có thể cho bản thân, có thể vì điều kiện học hành cho con cái, cũng có thể chỉ vì họ có một nỗi buồn nào đó ở nơi quê cha đất tổ thôi thúc họ rời xa, càng xa càng tốt. Đi sâu vào nữa thì lại trở thành những câu chuyện rất riêng mà không thể nói ra cho rõ ràng đầy đủ. Tôi chỉ muốn nói về những con người VN nơi cái xứ lạnh này.
Thông thường, các bậc làm cha làm mẹ sang đây đều rất bận rộn làm việc, buôn bán. Những đứa trẻ sinh ra ở VN hay ở nơi đây nếu ở chung với bố mẹ sẽ không thường gặp mặt bố mẹ trong ngày. Từ nhỏ, chúng thường được ở với bảo mẫu là những bà già Nga hay những phụ nữ Nga trung niên đã xin nghỉ việc để làm bảo mẫu chuyên nghiệp cho cộng đồng người VN. Giá tiền thì tùy gia đình, tùy thành phố, ở thành phố nhỏ có thể là 100–200$/tháng, ở Moscow có thể nhiều hơn tùy thỏa thuận.
Cũng có gia đình đưa em vợ, em chồng sang làm bảo mẫu kiêm người giúp việc cũng có căn hộ thì thỏa thuận 1 người ở nhà trông con chung rồi các nhà khác góp tiền. Nhiều hoàn cảnh, tựu chung, xác suất một đứa trẻ thường xuyên ở bên cạnh chơi với bố mẹ là không cao. Đôi khi áp lực kinh doanh cũng khiến các ông bố bà mẹ gắt gỏng với con mỗi khi chiều tối về đến nhà. Lâu dần, cái mối dây tình cảm liên kết bố mẹ – con cái cũng mỏng dần đi.
Phần lớn những đứa trẻ này đều hiểu tiếng Việt, 80% nói ok, cũng bởi dù sao chúng vẫn sinh hoạt trong cộng đồng, phần còn lại nói cực kém, như kiểu “LUỘC GẠO” hay “CON CÁ NÓ ĐI, NGU LÀ GÌ HẢ BỐ?”… Tuy nhiên phần đông chúng khi trò chuyện với nhau đều bằng tiếng Nga, thứ tiếng chúng quen thuộc và có nhiều kinh nghiệm. Hầu hết những đứa sinh ra bên này hoặc học từ nhỏ đều nói tiếng Nga với phát âm cực chuẩn. Ngữ pháp thì chưa chắc (khả năng viết) vì cái này cần rèn luyện, mà bố mẹ chúng thì chẳng giúp được gì.
Các bậc sinh thành chúng chỉ có một vốn tiếng Nga cực kỳ tệ hại, chỉ dùng trong phạm vi chợ mà thôi. Cho nên có lần một thành phố xa tôi chứng kiến lúc tranh cãi thằng con nó chửi ông già nó là “Đồ con lừa”, ông bố hét lên: “Nói tiếng Việt cho tao hiểu!”. Đôi khi, cách mà người lớn VN đối xử với nhau khiến một vài đứa trẻ trở nên khiếp sợ và ghét bỏ người VN. Có đứa tôi gặp, 16 tuổi chưa bao giờ muốn nói chuyện với người VN. Nó ghét người VN, một phần do cách nó nhận xét về người VN, một phần khi nó đi học, lũ bạn chửi nó là “bọn VN, chúng mày láu cá, lừa bọn tao, lừa bố mẹ tao…” nên nó bị cô lập ở trường, và nó quay lại ghét những người làm nó bị cô lập.
Những đứa trẻ VN nơi đây tuy khôn ranh hơn lũ Nga đồng lứa (hình như khôn vặt là một nét khó có thể chối bỏ của dân tộc mình) nhưng nếu so sánh sự ranh mãnh với lũ trẻ ở VN thì vẫn chưa ăn thua. Lũ trẻ ở đây về cơ bản là dần dần sống ý thức hơn, sạch sẽ hơn, và thật thà hơn. Chỉ những đứa trẻ nào sống trong một cộng đồng VN quá lớn (như khu tập thể SQ) thì nhiều đứa cũng sẽ ranh mãnh, tham lam và quậy phá kiểu vô ý thức như những đứa trẻ ở VN (ví dụ lấy đồng xu cào xước xe người ta, bấm chuông cửa căn hộ rồi chạy…) mà mỗi khi xảy ra, người Nga đều kết luận là do lũ VN vì lũ Nga cực kỳ hiếm đứa làm thế.
Nhưng nói công bằng, lũ trẻ VN có vài đứa trở nên nổi bật trong trường, cũng có vài trường hợp lên báo VN rồi. Phần đông chúng khá môn Toán, kém môn văn học Nga. Khá Toán cũng là kết quả thường thấy trong XHVN, nhà nào cũng ép con học Toán, hiếm nhà nào thuê gia sư môn văn học Nga. Hầu hết vì thế, dù vài đứa trẻ VN có quốc tịch Nga cũng không thi vào ĐH Nga theo đường công lập mà phải học dạng tự túc.
Nói sơ về thi ĐH bên này, nếu thi khoa tự nhiên thì 2 môn bắt buộc là Toán và Văn học Nga, tùy trường mà vấn đáp hay viết. Thí sinh nộp đơn, các trường sẽ thông báo ngày thi, đến hôm ấy thí sinh đến thi, môn đầu tiên có thể là Toán hoặc Văn học Nga. Ví dụ hôm đầu thi Văn học Nga và tiếng Nga, thi vấn đáp, anh vào phòng thi có hội đồng hỏi vài câu, nếu ok thì hôm sau thi Toán, nếu bị đánh rớt thì thôi, học kiểu tự túc đi, khỏi thi mấy môn khác. Thi xong 2 môn ấy ok thì hôm sau thi môn chuyên ngành như Toán (nếu anh thi các ngành liên quan đến Toán, Lý, Hóa, Tin…).
Học sinh đạt Olympic thường được tuyển thẳng. Khi vào học thì SV thi đậu qua kỳ thi thì học phí coi như miễn, có học bổng, KTX coi như miễn (đóng cho có). Nhưng nếu có học kỳ nào thi không qua thì bị chuyển sang dạng tự túc đóng tiền. Chênh lệch giữa hai kiểu học này khá lớn, nhiều đứa bị rớt là bỏ học luôn vì nhà nghèo không đủ tiền đóng học phí ĐH.
Cách đây chục năm học phí còn rẻ, giờ thì có trường cũng cả chục nghìn $ 1 năm rồi, phần đông khoảng 3–4k$ 1 năm, rẻ nhất thường mấy ngành Toán Lý, đắt nhất thường kinh tế, luật… giống VN. Con gái lớn lên ở cái xứ này thường da trắng, xinh hay không tùy nhưng chúng khá là biết trang điểm.
Cũng đúng vì phần đông gia đình bên này nói giàu thì chưa, chứ dư ăn thì quá bình thường. Chuyện cho con tiền mua sắm như một sự chuộc lỗi trong tiềm thức của những bậc làm cha làm mẹ. Đôi khi trong tiềm thức họ hiểu mình quá ham công việc mà bỏ bê con cái, nhưng giã ra khỏi guồng quay hàng hóa thì lại không dễ vì mọi tài sản của họ đang neo ở hàng, bỏ là mất hoặc thu lại chẳng bao nhiêu nên không bỏ được.
Đôi khi kể cả họ muốn biết con cái họ học hành thế nào cũng chịu vì không đọc được sách vở của con, thứ tiếng Nga không tồn tại ở chợ. Có những lúc đứa con học kém, ham chơi, thầy cô gọi bố mẹ lên để cảnh báo thì các vị ấy cũng cứ cười hê hề, rồi đa đa nhẹt nhẹt loạn cả lên. Về nhà thằng con bảo cô khen con có khi cũng tin. Do đó, có những gia đình thuê gia sư cho con chỉ là để gia sư dịch lại những nhận xét của cô giáo về con mình cho họ nghe hoặc đôi khi thay họ đi họp phụ huynh.
Có bà mẹ cũng đã từng thốt lên: “Chị ở đây như người câm điếc ấy em ạ, chán lắm.” Đôi khi thằng con lại hỏi: “Câm là gì hả mẹ??”
Phần đông các đứa trẻ sinh ra trong gia đình giàu có đều có tương lai được sắp xếp sẵn ở Châu Âu hay ở Mỹ. Chúng sẽ sớm sang đó học tập và bố mẹ chúng cũng sẽ sớm tất toán vụ làm ăn bên này để sang đó sống nếu có thể. Kha khá người làm ăn bên này dù là từ phía Bắc, có gia đình ở Mỹ hay Châu Âu, đặc biệt là khối Đông Âu xưa.
Ngày lễ tết, chúng cũng tham gia, nhưng thực sự vui và cảm nhận thì không nhiều. Đối với chúng, Tết Tây vui hơn nhiều. Tuy nhiên, nói gì thì nói, trước mặt người lớn tuổi, lũ trẻ VN có chút tình cảm hơn, nghe lời hơn so với lũ trẻ Nga (dù thực ra lũ trẻ Nga sống thực với cảm xúc hơn). Nên cũng có trường hợp bà bảo mẫu già người Nga sau khi chăm một đứa trẻ nào đó thì thương nó như cháu ruột vậy, đến khi bà sắp chết bà di chúc lại căn hộ bé bé của bà cho đứa nhỏ. Đến khi bà mất, con cháu bà ở đâu đâu mò về, sau khi nghe vụ căn nhà đã di chúc thì chúng nó bỏ đi, chẳng màng chuyện tang lễ. Cuối cùng tang lễ của bà lại do những con người da vàng bé nhỏ hàng xóm của bà tổ chức, mà họ tổ chức rất trang trọng.
Người VN ta, nghĩa tử là nghĩa tận. Nói về trường hợp này một chút: Nước Nga có một giai đoạn hay một thế hệ mà tôi dùng từ là khốn khổ và lạc lối, những thanh niên ở thế hệ ấy khi đến tuổi trưởng thành thì vật vã loay hoay tìm lối ra cho cuộc sống và công việc. Cha mẹ họ, những con người cộng sản thuần, không hề biết làm sao để giúp đỡ con cái. Cái khốn khó nó đẩy bùng lên những mâu thuẫn giữa hai thế hệ, giữa những ý thức hệ khác nhau và khoét sâu vào nỗi uất ức vì thiếu sự đỡ đần của bố mẹ đối với những thanh niên này (đôi khi khi khó khăn, người ta dằn vặt bố mẹ mình là: “Sao thằng A, con B nó ra trường bố nó lo cho hết mà con thì chẳng nhờ được gì từ bố mẹ.”).
Tất cả những điều đó nó phá tan rất nhiều giá trị gia đình truyền thống. Nó đẩy con cháu xa khỏi bố mẹ ông bà. Nhiều người thất chí bỏ đi làm ăn xa, cố tình nhiều năm không liên lạc với bố mẹ mình. Đôi khi báo lại đăng có ông cụ này chết mấy tháng trong nhà mà không ai biết, có bà cụ té cầu thang nằm ngất nửa ngày không ai hay… đau lòng lắm!
Lũ trẻ VN sống ở xứ này có vài đứa cũng như thế, nhưng phần đông đều ít nhiều yêu thương, sợ hãi bố mẹ mình. Tôi nói sợ hãi vì sợ hãi ít nhiều gì cũng là một trong những nét chung của hầu hết mọi đứa trẻ VN đối với bố mẹ, cho dù sống ở bất cứ đâu. Phần đông chúng gặp khó khăn trong việc diễn tả mọi thứ bằng tiếng Việt, với chúng tiếng Nga thoải mái hơn. Vài đứa có suy nghĩ xa và rộng nhưng phần đông vẫn không thể hiểu mình đang học vì cái gì, vì sao phải học Toán, vì sao lại học trường Kinh Tế… việc học tập của chúng vẫn bị quyết định bởi bố mẹ, những người chẳng hiểu nổi cô giáo chúng nói gì.
Tôi cũng thấy thêm một nét nữa rất khác giữa người VN và dân Tàu hay Thổ là bố mẹ VN thường trong thâm tâm không muốn con mình buôn bán hay tiếp nối chuyện buôn bán của mình. Dường như trong tiềm thức họ chỉ muốn kiếm đủ là về. Điều này trái ngược với lũ Thổ và phần ít lũ Tàu, những người luôn muốn con mình học để đỡ đần mình, tiếp nối việc làm ăn của mình. Do đó, cộng đồng dân Thổ (nói Thổ là nói chung mấy dân tộc kiểu Thổ hay Azec hay mấy nước mà tóc đen và mặt thì có nét Caucasian) càng ngày càng lớn mạnh và nắm giữ dần sức mạnh kinh tế của mình. Còn cộng đồng VN thì ngày càng yếu đi trông thấy.
Cờ bạc xứ này
Viết về cờ bạc là bởi khi còn SV, đã từng tự hứa bản thân ngày tốt nghiệp gần về nước sẽ vào thử con casino xem nó thế nào, ai dè còn 1 năm nữa xong thì Tintin cấm casino, dẹp hết. Chán vãi.
Tôi biết đến casino qua phim Hongkong, tất nhiên chả phải mình tôi. Cứ nghĩ casino là nơi có những thần bài, Long Tứ đủ kiểu nên khi sang đây thấy có casino nói thực là háo hức lắm. Nhưng học bổng ăn còn đíu đủ, ca ca cái gì. Những năm ấy chỉ nghe nói có nhóm SV con em trong ngành của Dầu Khí đi học ở ĐH Dầu khí Moscow là rủng rỉnh tiền thôi, từng có tin đồn có chú 1 đêm đốt 10k$ vào sòng, để dễ so sánh, học bổng sinh viên khi ấy khoảng 3k$ 1 năm. Đám sinh viên ấy có đứa năm 3 bị đuổi học, 2-3 năm sau thấy sang lại Nga công tác dưới danh nghĩa cán bộ rồi. Tóm lại, chưa bao giờ có dịp vào nên không kể về nó mà sẽ kể về các loại cờ bạc quen thuộc gây ảnh hưởng lớn đến cộng đồng.
Đầu tiên và ảnh hưởng sâu rộng nhất là mấy cái máy đánh bạc tự động. Cái đầu tiên tôi thấy là ở sân một nhà ga đi thành phố xa. Đó là những năm đầu 2000, những nhà ga còn khá hỗn loạn (nhưng an ninh hơn nếu so với VN), cạnh ga hay có những chợ bé bé, có chợ có người VN, có chợ tuyến Tàu và Thổ. Đồ bán thì đa dạng, từ cái túi xách, túi đeo, đồ lưu niệm (đồ làm bằng nhựa như mấy cái lọ nhựa trong suốt trong đó có 2 dung dịch không hòa lẫn vào nhau giả làm trời và biển, có hình nhân bằng nhựa nổi đúng giữa mặt phân cách 2 chất lỏng ấy theo định luật của cha gì ở trường chạy lung tung ấy) cho đến đồ đắt tiền như thảm sàn hay áo quần fake (móa hồi ấy với SV quần áo là đồ cmn đắt tiền quá đi ấy chứ). Quay về cái máy đánh bạc ấy, giống hệt mấy cái máy hay thấy trong phim Hongkong hay Mỹ. Cho xu, gạt phát màn hình giả lập quay o o nếu trùng hình thì ăn theo tỷ lệ nào đấy mình cũng không biết. Ngày ấy 1 lần quay tầm 5r. Chợ Vòm cũng có cửa hàng đặt cái máy này. Mình để ý có những bà bán được cốc nước (bán nước dạo) có tiền là vào đút, ấn, gạt, không trúng lại ra bán tiếp. Có ông cũng cứ ngồi 1 tiếng lại chạy đi lấy tiền về quay. Tuy nói thật ra, thiệt hại mỗi ngày chơi cái này nó không đến mức quá nhiều (vài nghìn, chục nghìn Rub là nhiều lắm rồi) nhưng cái chính là nghiện rồi thì không chú tâm làm ăn, chỉ muốn chạy ra ôm cái máy. Thiệt hại nhiều nhất là từ chỗ này. Dân VN cũng có người làm chủ mấy cái máy này, nhưng lâu dần cũng mất dần vào tay bọn Thổ. Bọn ấy chơi lớn, làm lớn và đoàn kết, nó có thể tập hợp anh em chi ra đống tiền quyết dành cho được quyền kinh doanh, sau đó nó độc quyền nó sẽ thu lại. Dân VN mình, chung khổ thì được, chung sướng đek được. Cứ hợp tác làm ăn, ban đầu thì ok, khi có lãi bắt đầu quay ra cãi nhau, nên nó chả ra nổi một cộng đồng mạnh. Ông nào cũng sợ mình thiệt.
Đến một ngày, lệnh cấm được ban ra, những chiếc máy biến mất như chưa hề tồn tại, chỉ những con nghiện là vẫn chép miệng nhớ thương cái âm thanh máy phát ra khi màn hình hiển thị vòng xoay đang chạy. Thực lòng mà nói tôi cũng có 1 lần thử trong khi chờ tàu đến ga để giết thời gian, chơi được 10 lần mất 50r thì chả được mẹ gì nên thôi, nghỉ đi uống cafe cho khỏe. Chiếc máy ấy hình như dạo này có đôi chỗ thấy xuất hiện lại, không rõ là hợp pháp hay không.
Tiếp đến là cá độ bóng đá, cái này mới khủng. Nga trước đây cho phép cá cược, như kiểu cá ngựa ở Hongkong, có đánh đủ thứ, thắng thua, tỷ số, đánh liên, đánh tổ hợp, đánh thẻ, đánh linh tinh… mà cái trò bóng đá, đíu hiểu sao dân mình lao vào như thiêu thân. Tôi đồ rằng dân mình mê cờ bạc chứ cũng chả hẳn là bóng đá, chẳng qua bóng đá nhiều cái hay để phán nên chơi ác. Tuy có thể cá độ chính quy nhưng có hạn lượng cho 1 lần đánh, mà thế thì dân mình đíu khoái. Dân mình là cứ phải tất tay mới phê. Thế là nổi lên thầu bóng bánh. Cái này thì gây ra lắm vụ kinh lắm. Chuyện đặt cược cũng giống như nhà mình, qua điện thoại hoặc trực tiếp. Có những mùa bóng mà hôm trước còn làm chủ sạp, sáng sau đã mất trắng. Như kiểu ba cái trận Pháp Senegal ấy, cửa Pháp ăn chắc dù tỷ lệ thấp nên các bố chơi xuống 100k$, thua mẹ nó sặc tiết. Mất trắng! Hay đơn cử VN-Mã vừa rồi nếu chơi thì các đồng chí biết nó thế nào. Nhiều người ăn, nhưng phần đông dính vào cái này là chỉ có chết. Những năm tháng ấy bao nhiêu trường hợp đã ra đường nằm. Hối hận đã muộn. Chợ Vòm khi ấy nó như một xã hội thu nhỏ được bảo kê bởi nhiều phía. Lực lượng cá độ và đòi nợ cũng nhờ mấy mùa bóng mà ăn nên làm ra. Một lực lượng nữa là thu tiền người cá độ, cái này có nhiều người làm, cả sinh viên, nhưng tính nguy hiểm quá cao khi mà ôm cả đống tiền mặt chạy lung tung trên đường, thậm chí có đứa thu độ nó chung nhưng nó tổ chức cướp lại trên đường vận chuyển là chuyện không hiếm gặp. Tuy nhiên đời có vay có trả, phần lớn những người làm cá độ cũng đều có kết quả không hay lắm. Chỉ vài người trở nên giàu có, nhưng lún sâu thì giàu cũng chả sướng gì. Không có tự do!
Đi nhiều thấy nhiều mới nghiệm ra một điều, phạm là dân nghiện, họ có thể đánh bạc với mọi thứ. VD: đang ngồi ăn lại bảo mày cược xem ông này hôm nay có bán được hàng không? Hay mày cược xem mai bà kia có ra chợ không? Hay ấm nước nhà mày sôi đang réo kìa chứ không phải ấm nhà bà C đâu, cược không?… Lắm lúc “cược gì, chơi không, thế …thì mày mất gì?”…. nó thành câu cửa miệng của một người nào đó. Họ chìm trong cám giác được đánh cược và ủ mưu phục thù, cả ngày của họ chỉ thế. Những người thế này không bao giờ có thể ngẩng đầu lên được. Họ thích và chọn lựa chìm trong cơn nghiện của mình.
Những kẻ ăn mày đáng tôn trọng
Đã bao nhiêu lần muốn nâng máy lên chụp nhưng rồi lại thôi. Đôi khi, cái cảm giác xót xa lấn át tất cả những cảm hứng có hơi hướng nghệ thuật hoặc lưu trữ kí ức. Tôi ước gì mình có thể dễ dàng quên đi những dáng người lặng lẽ ấy.
Nước Nga sau hơn 10 năm tôi sống ít nhiều có những thay đổi mang tính tích cực. Những nhà hàng cửa hiệu mọc lên mỗi ngày, những món ăn ngoại quốc dần dần xâm chiếm thị trường nơi đây, từ những quán bình dân như Mac, KFC, Saurma, Mumu… cho đến những quán ăn hạng trung như Sushi, hay cafeViet. Còn hạng sang thì tôi chưa bao giờ thử, nhưng thấy cũng đã nhiều. Giá cả mỗi bữa ăn tùy quán mà dao động từ 10$ đến cả trăm $. Nước Nga riêng về ẩm thực đã chuyển mình mạnh mẽ từ những stalovaya (nhà ăn cho nhà xưởng hoặc trường học) đến những không gian sang trọng có nhạc sống du dương phục vụ suốt ngày. Nhưng bên cạnh sự phồn vinh ấy là những phần người lạc lõng, u buồn và mất mát. Những người ăn xin.
Những năm đầu 2000, đường phố rất ít người ăn xin, nếu có đó hầu như là những nghệ sĩ không chuyên, họ ngồi đâu đó trong những đoạn chuyển giữa các bến metro, trong hầm qua đường bộ, trên bến tàu, trên các con phố đông người. Họ lịch sự và lặng lẽ chơi thứ âm nhạc không chuyên của mình, từ những bản tình ca đến những trích đoạn giao hưởng nào đó. Họ cứ chơi như thể cho chính mình, người qua đường vẫn bước, đôi khi vài người nghe tiếng nhạc từ xa đã chuẩn bị sẵn vài xu lẻ bỏ vào cái cốc hay chiếc nón ngửa của những nghệ sĩ này. Hình ảnh về họ rất quen thuộc trên bất cứ đường phố phương Tây nào mà chúng ta ít nhiều đã từng thấy. Ăn xin nhưng rất có văn hóa. Thông thường khi rủng rỉnh tôi cũng cho họ vài xu, đôi khi nếu có tâm trạng tốt thì tôi trút tất cả xu trong ví của mình cho họ mà không đếm lại. Những năm tháng ấy, tuyệt chưa có những người ăn xin già hay những đứa trẻ.
Không rõ từ khi nào, có lẽ nhất là sau khi Putin thay đổi chế độ phụ cấp dành cho người già (từ miễn phí gần hết các dịch vụ y tế và công cộng sang trả tiền mặt để các cụ tự lo) lực lượng người già xin ăn trở nên đông đột biến. Họ ăn mặc thường là rất nghèo, nhưng hầu như sạch sẽ. Họ hay đứng cạnh những quầy thuốc lá, quầy thức ăn nhanh, quầy tạp hóa trong tàu điện ngầm. Họ chỉ đứng đó chìa tay ra, họ rất ít nói và thường thì không chủ động xin. Nhưng hầu như mọi người hiểu họ đứng đó làm gì. Lần đầu tôi thấy một bà lão đứng cạnh quầy thuốc lá tôi lập tức hiểu bà muốn gì, số tiền xu thối lại từ bao thuốc tôi đặt vào bàn tay gầy guộc đang run run nhẹ nhẹ. Thực sự không hiểu cái run rẩy ấy là đói hay do tuổi già. Bà nói một câu cảm ơn và lời chúc phúc khi tôi đưa bà ít tiền còn ấy còn tôi thì vội bước đi ngay lập tức, tôi cảm thấy nghẹn lòng. Ở góc độ con người, tôi tin rằng dù gì đi nữa, người già cần được chăm sóc và ít ra họ không nên bị đói!
Nếu quan sát, những người già ấy rất ít khi ngẩng đầu lên, họ tránh nhìn vào mắt người đi đường hoặc người đối diện. Nó cho chúng ta cái cảm giác họ xấu hổ nhưng bất lực. Ở tuổi của họ, đó là lựa chọn gần như là duy nhất. Có đôi khi người già cũng còn một lựa chọn khác, họ bán những gì mình còn giữ hay có được. Vài cọng hành lá thu được từ việc vùi củ hành tây vào cái chậu con con trong phòng, ít nấm họ nhặt trong rừng mùa hè, ít táo con họ hái trên những cây táo mọc đầy trên vài con đường khắp Mos, vài quyển sách nhỏ cũ kĩ, chiếc khăn len tự đan, hũ dưa chuột tự muối, mấy cành chổi mùa đông (loại cây khô quắt mùa đông mà nếu mang ngâm nước ấm sẽ lại nở ra vài chiếc lá hay có khi là bông hoa nho nhỏ)… nhưng hầu hết những thứ ấy đem lại lợi nhuận không cao và bán cũng khó mà chạy khi mà cả về số lượng lẫn chất lượng đều không so với hàng siêu thị được. Người ta mua, đa phần là muốn giúp ông bà chút ít tiền còn và cũng là cách để ông bà nhận sự giúp đỡ mà bớt đi nhiều phần xấu hổ. Nếu đi đâu về qua Metro mà thấy cần mua ít hành ngò hay dưa chuột muối tôi thường ưu tiên mua của những người này. Đôi khi nếu tiền thối không nhiều, tôi cũng không nhận lại, tôi tin ai mua hàng các cụ cũng thế. Họ thường cảm ơn rất chân thành cho những nghĩa cử ấy.
ôi cũng biết có lẽ thời trẻ họ không có một công việc mang tính chuyên môn cao, hoặc chính ra họ cũng không từng là những người có trình độ vì thông thường lương hưu của những người này khá ổn. Nhưng nhìn lại VN cũng vậy, xã hội mà, số người sống bằng lương hưu đủ đầy được bao nhiêu? Nhưng có một điều tôi nhận thấy là người VN mình giỏi xoay sở hơn con người xứ này. Hầu như các cụ ở thành phố đều có cách xoay sở nào đấy nếu thiếu lương hưu. Ở quê thì không nói làm gì vì ít cơ hội để xoay sở ra tiền (ra tiền chứ không phải ra cái ăn).
Những người già xứ này còn hay bị một loại bệnh dường như là do cái lạnh và hậu quả của việc ăn bơ sữa quá nhiều: bệnh giãn tĩnh mạch chân. Những đôi chân sưng phù run rẩy khó nhọc bước từng bước. Những đôi chân to tới mức rất đau đớn khi cố nhét vào đôi giày rẻ tiền họ đang mang. Mà xứ này không có giày thì có mà chết, kể cả mùa hè cũng chả được mấy ngày mặt đất đủ ấm để chạy chân trần. Cái lạnh ngàn năm nó thấm cả vào lòng đất! Bạn tôi học Y từng kể về những bệnh nhân này và cách các bác sĩ cắt và kéo những đoạn tĩnh mạch chân bị chết ra khỏi da người bệnh khiến tôi ăn mất ngon mấy hôm liền. Nên chớ lạ nếu ai đó thấy trong những thước phim thời sự về nước Nga có những cụ già bước đi rất chậm.
Mấy năm trở lại đây, lực lượng ăn xin ở Mos đón thêm một nhóm người mới. Những người phụ nữ Đầu Đen (từ Đầu Đen là từ chỉ chung các dân tộc Caucasian có nét như dân lai Âu Á (hoặc Trung Á) nhưng tóc đen xoăn). Những người phụ nữ ăn mặc rất đặc trưng, đôi khi dẫn theo con nhỏ và sai đứa nhỏ bám lấy đối tượng tiềm năng để vòi tiền – giống ở đâu nhỉ? Những kẻ này thường bị dân Nga khinh bỉ và có khi gọi cảnh sát kiểm tra. Nhưng không hiểu sao số lượng đối tượng này ngày một nhiều. Tôi chưa bao giờ cho tiền họ cả. Quan điểm của tôi là cho tiền chỉ giúp đẩy những đứa trẻ ấy sâu thêm vào cái số phận thảm thương hiện giờ.
Cuối cùng và cũng mới ngày một xuất hiện nhiều là những người tàn tật hoặc những người (có lẽ) có hoàn cảnh đặc biệt. Họ thường đứng im ở đoạn chuyển Metro hoặc đi dọc vào bên trong các toa tàu khi đang chạy và lớn tiếng nêu lên tình trạng bản thân (như kiểu trở về từ chiến trận Afghanistan, bị tai nạn lao động hay con trai tôi cần tiền phẫu thuật) vừa nói, vừa đi hay lăn xe lăn dọc các toa tàu điện ngầm. Ai cho bao nhiêu thì nhận, không vòi vĩnh. Đôi khi họ chỉ giơ ra trước ngực một tấm bảng nhỏ viết tình trạng của mình và lầm lũi đi dọc toa tàu hay đứng một chỗ nơi chuyển bến. Tôi đôi khi nếu cảm thấy tin tưởng cũng cho những người này một ít.
Ở cái xứ này, cuộc sống thay đổi quá nhanh trong những năm vừa qua, cả về kinh tế lẫn ý thức hệ. Nó cho nhiều người cơ hội, nó đẩy không ít kẻ ra đường. Đôi khi dường như điều này giống cách mà thiên nhiên đào thải và chọn lựa. Ở bất cứ nơi đâu tôi tin điều này cũng đều tồn tại, nó chỉ khác nhau chút ít ở phương thức và tốc độ đào thải mà thôi. Nếu chúng ta may mắn không phải là kẻ bị đào thải, vậy đôi khi cũng nên san sẻ chút may mắn của mình theo những cách khác nhau, nó giúp mọi thứ trở nên tử tế hơn, còn ít hay nhiều tự mình định giá lấy!